LỜI GIỚI THIỆU
Hơn 30 năm qua, kế thừa truyền thống vẻ vang của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam được hun đúc qua các giai đoạn lịch sử đấu tranh cách mạng – nhất là kể từ khi nước nhà được thống nhất đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngủ CNVCLĐ và tổ chức Công đoàn Tiền Giang không ngừng lớn mạnh và phát triển; góp phần to lớn vào việc thực hiện 2 nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để khắc họa, tái hiện lại bức tranh lịch sử của phong trào CNVCLĐ và tổ chức Công đoàn trên những chặng đường đã qua; nhằm đáp ứng được lòng mong đợi của nhiều thế hệ cán bộ Công đoàn đã từng gắn bó với tổ chức Công đoàn từ những năm đầu khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng và trong bước chuyển đổi từ cơ chế cũ đến thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; bên cạnh đó, sự tái tạo lại bức tranh lịch sử này sẽ khơi dậy niềm tự hào không chỉ cho người trong cuộc mà còn có tính giáo dục sâu sắc các thế hệ cán bộ Công đoàn kế tiếp về những bài học kinh nghiệm được đúc kết về phương pháp, vận động, tổ chức tập hợp lực lượng trong phong trào CNVCLĐ và hoạt động Công đoàn dưới sự lãnh đạo của Đảng để tiếp tục gìn giữ, vun đắp hướng đến tương lai; góp phần ra sức xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh.
Chào mừng Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần IX và Đại hội Công đoàn Việt Nam lần XI, nhiệm kỳ 2013-2018. LĐLĐ tỉnh phát hành tài liệu lịch sử này trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc; mong rằng đây là một tài liệu lịch sử bổ ích được phổ biến rộng rãi giúp cho CNVCLĐ và đoàn viên trong tỉnh tìm hiểu, nắm được truyền thống vẻ vang của tổ chức Công đoàn tỉnh Tiền Giang; đồng thời, tiếp tục pháp huy truyền thống đó trong giai đoạn phát triển mới.
Tuy nhiên, trong quá trình biên soạn không sao tránh khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong đón nhận những ý kiến đóng góp bổ sung của các đồng chí để tập sách sẽ hoàn chỉnh hơn./.
|
TM. BAN THƯỜNG VỤ LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TỈNH TIỀN GIANG Chủ tịch TRƯƠNG VĂN HIỀN |
PHẦN MỞ ĐẦU
VÙNG ĐẤT TIỀN GIANG VÀ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC
Nằm dọc theo bờ Bắc của một nhánh sông Cửu Long thuộc Nam Bộ – Việt Nam, có một tỉnh được mang tên của nhánh sông ấy, đó là tỉnh Tiền Giang.
Nơi đây, qua những biến động địa chất, qua những thăng trầm lịch sử, đất và người Tiền Giang là sự thống nhất hài hòa, kỳ diệu.
Trên bản đồ Việt Nam, phần cuối của một đất nước có hình cong chữ S, một màu xanh trải ra đẹp mắt.
Trên màu xanh ấy, Tiền Giang hiện ra bên dòng sông Tiền với chiều dài 120 km, có 3 cửa biển (cửa Soài Rạp, cửa Tiểu và cửa Đại), với diện tích 2.366,600 km2 (chiếm 0, 71% diện tích cả nước), phía bắc giáp tỉnh Long An, phía nam giáp 2 tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long – lấy sông Tiền làm ranh giới, phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp, phía đông giáp biển Đông với 32 km bờ biển.
Là vùng hạ châu thổ, đất Tiền Giang được tập trung phù sa của những hệ thống sông sông Tiền, là một trong những vùng đất trù phú của đồng bằng sông Cửu Long.
Có thể hình dung xưa kia đồng bằng này còn nằm trong vùng biển cạn. Dấu tích thấy được ở Óc Eo – vùng núi Sập (tỉnh An Giang) một thương cảng nổi tiếng của vương quốc Phù Nam khoảng 2.000 năm trước; ở huyện Cai Lậy và huyện Tân Phước (tỉnh Tiền Giang) với những lớp vỏ nhuyễn thể, dấu tích của bờ biển gần 3.000 đến 5.000 năm trước. Như vậy, từ khoảng 3.000 đến 5.000 năm trước, phần lớn đất Tiền Giang còn nằm trong vùng biển cạn. Qua thời kỳ biển lùi, những nhánh sông của dòng sông Mê Kông không ngừng bồi đắp để tạo ra vùng đồng bằng phì nhiêu hiếm thấy ở vùng Đông Nam Á.
Sự bồi tụ phù sa của các dòng sông cùng với sự kiến tạo địa chất và hiện tượng biển lùi đã làm lộ rõ những đụn cát với các thành phần bùn sét, cát sét, cát hạt mịn… để ngày nay chúng ta gọi là giồng – gò. Một số vùng thấp trở thành vùng trũng, đặc biệt là vùng Đồng Tháp Mười – một vùng trũng rộng lớn mà các dòng sông chưa thể lấp đầy.
Đất và nước Tiền Giang thực sự là bức tranh nhiều màu sắc, được tạo bởi đặc tính của kinh rạch chằng chịt, nhiều giồng gò, đầm lầy, cồn, bãi biển, sông nước, các cửa sông… Do khí hậu vùng Tiền Giang mang tính chất gió mùa cận xích đạo, 2 mùa nắng – mưa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11 dương lịch, mùa khô từ tháng 12 năm trước đến cuối tháng 3 dương lịch năm sau, với đặc điểm địa chất, địa hình của vùng hạ châu thổ, thảm thực vật và hệ động vật trở nên vô cùng phong phú.
Qua truyền thuyết, xưa kia vùng Tiền Giang có nhiều cọp, heo rừng, voi, khỉ … cùng rất nhiều loài chim lạ. Dưới biển, trong sông, trong kinh rạch rất nhiều loài cá tôm, nghêu, ốc, sấu. Trên cạn có rất nhiều loài bò sát và đầy muông thú. Ngày nay, nhiều địa danh vẫn còn lưu giữ ký ức về thú dữ, chim lạ: Cọp Giồng Găng (Gò Công), heo rừng Cây Gáo Ba Làng (Cai Lậy), rạch Láng Tượng, rạch Voi Đi, cồn Chim, Gò Công,…; nhiều địa danh lại ghi dấu về các loài thực vật như: rạch Rau Răm, gò Sao, rạch Xoài Mút, sông Tra, … Trong câu ca còn ghi lại hình ảnh buổi đầu đến khai hoang: “Dưới sông sấu lội/ Trên giồng cọp đua”, hay như vùng Đồng Tháp Mười thì “Muỗi bay như sáo thổi/ Đỉa lội tựa bánh canh”. Một vùng đất như thế thực sự là thử thách lớn của cư dân khẩn hoang.
Tiến trình nhập cư của lưu dân Việt vào vùng Tiền Giang từ lẻ tẻ, rời rạc, dần dần có quy mô lớn hơn, nhất là sau khi các chúa Nguyễn đã tạo được ảnh hưởng của mình trên vùng đất từng là miền ác địa vô chủ này. Cho đến những thập kỷ cuối thế kỷ XVII, thế lực của chúa Nguyễn trên vùng đất này được tăng lên mạnh mẽ, khuyến khích làn sóng định cư của người Việt trên vùng đất mới.
Tháng giêng năm Kỷ Mùi (1679) một nhóm người Hoa trong phong trào “bài Thanh phục Minh” sang Việt Nam xin tỵ nạn chính trị được chúa Nguyễn cho định cư tại Nông Nại (Đồng Nai) và Mỹ Tho. Như vậy, từ năm 1679, vùng Mỹ Tho có thêm người Hoa sinh sống tại khu vực chợ Cũ ngày nay.
Cuối thế kỷ XVII, có những đợt chuyển cư diễn ra cùng thời với sự kiện Nguyễn Hữu Cảnh tuân lệnh chúa Nguyễn Phước Chu vào kinh lược đất Gia Định (năm 1698). Có lẽ, đây là đợt chuyển cư có tổ chức lớn nhất so với trước đó. Những đợt chuyển cư này đã đưa phủ Gia Định lên tới 40.000 hộ dân (nếu tính mỗi hộ 5 người thì Phủ Gia Định có tới 200.000 người).
Năm Giáp Tý (1744), 2 làng đầu tiên của vùng Tiền Giang được thành lập là làng Bình Phục Nhứt và làng Bình Trị, mở ra thời kỳ lập làng của cư dân khẩn hoang trên vùng đất phía bắc sông Tiền.
Cuộc chiến tranh Tây Sơn – Nguyễn Ánh (1777 – 1802) đã làm xáo trộn nhất định về cư dân vùng Tiền Giang, đặc biệt là trong và sau trận Rạch Gầm – Xoài Mút (20/1/1785) đã làm cho Mỹ Tho Đại Phố hư hại nặng nề, phần đông người Hoa bỏ lên Sài Gòn, các hoạt động thương mại bị giảm. Sau khi Gia Long lên ngôi (1802) nhà nước phong kiến chủ trương khuyến khích khai hoang, có chính sách giảm thuế nông nghiệp cho những ruộng mới vỡ trong những năm đầu và chủ trương di dân vào Nam, tiến hành khai phá quy mô hơn.
Sản xuất nông nghiệp phát triển tạo điều kiện cho sự phân công lao động mới. Các chợ, thị tứ, phủ lỵ, huyện lỵ hình thành trên các trục giao thông thủy và bộ, đặc biệt là đường thủy, thuận tiện cho ghe xuồng khi đường bộ còn chậm phát triển.
Đầu năm 1785, nhân dân Định Tường với lòng yêu nước nồng nàn đã cùng với quân Tây Sơn tiêu diệt gần 5 vạn quân Xiêm – Nguyễn tại Rạch Gầm – Xoài Mút (một đoạn 7 km trên sông Tiền), chôn vùi mộng xâm lăng của quân Xiêm La, chấm dứt thắng lợi cuộc kháng chiến chống Xiêm của quân và dân ta.
Tháng 4 năm 1861, sau khi chiếm được thành Gia Định, thực dân Pháp đưa tàu tấn công Định Tường. Cuộc kháng chiến của quân và dân Định Tường chống thực dân Pháp đã bắt đầu nổ ra.
Trong cuộc kháng chiến ấy, nhân dân Định Tường đã đứng về phía những sĩ phu yêu nước, đóng góp sức người sức của cho kháng chiến. Tất cả các tầng lớp trong xã hội đều tham gia, từ nông dân, ngư dân, thợ thủ công, đến tầng lớp trí thức, sĩ phu, phú nông, quan lại, kể cả dòng thích lý, địa chủ, từ người Việt, đến người Minh Hương. Tinh thần yêu quê hương đất nước được khơi dậy mạnh mẽ, tạo nên những cuộc khởi nghĩa trên khắp địa bàn Định Tường. Đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Tứ Kiệt (Nguyễn Thành Long, Trần Công Thận, Trương Văn Rộng, Ngô Tấn Đước), Âu Dương Lân, Đốc Binh Kiều, Thiên hộ Võ Duy Dương, Trần Xuân Hòa (Phủ Cậu), v.v… gây cho địch nhiều thiệt hại, chúng phải lo sợ trước một dân tộc không cam chịu làm nô lệ. Đến nỗi, một sĩ quan Pháp phải thốt lên: “Mỗi người An Nam là một trung tâm kháng chiến”.
Các cuộc khởi nghĩa bùng lên dữ dội, nhưng cuối cùng đều bị thực dân Pháp đàn áp và đều bị thất bại. Chiếm được Nam kỳ (trong đó có Định Tường), thực dân Pháp tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ công cuộc khai thác xứ thuộc địa, trước hết là đường giao thông. Về đường thủy – chúng nạo vét sông Bảo Định, đào kinh Chợ Gạo (năm 1875); đường bộ – chúng nâng cấp quốc lộ Gia Định – Định Tường, xây dựng phà Rạch Miễu để nối với tỉnh Bến Tre; đường sắt – chúng cho xây dựng tuyến Sài Gòn – Mỹ Tho dài 71 km, là tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương khởi công 1881, đưa vào hoạt động năm 1885. Để hoàn thành các công trình phục vụ cho việc vơ vét nông sản và tài nguyên xứ thuộc địa, chúng đã bắt hàng chục vạn dân xâu làm việc trong điều kiện màn trời chiếu đất, bệnh dịch và tiền công rẻ mạt, trong khi phải làm 10 giờ/ngày, không thuốc men, không bảo hiểm, hàng trăm người đã phải bỏ xác tại công trường và hàng ngàn người bị thương và bị các bệnh dịch, để lại những hậu quả thật nặng nề.
Tháng 8 năm 1904, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tổ chức quản trị cấp xã ở Nam Kỳ, mở đầu cho việc thực dân Pháp trực tiếp can thiệp vào việc cai trị làng xã nước ta. Ở Mỹ Tho và Gò Công, người nông dân ít ruộng đất nhanh chóng bị bần cùng hóa, do chính sách vơ vét lúa gạo của thực dân Pháp. Ruộng đất tập trung vào một số ít địa chủ, còn lại ruộng đất của nông dân bị chia nhỏ.
Hưởng ứng phong trào Đông Du do Phan Bội Châu phát động từ năm 1905, nhân dân Mỹ Tho và Gò Công, nhất là nông dân, đã tiến hành những hoạt động chống Pháp dưới hình thức Hội kín Thiên Địa hội (Hội kín theo người Hoa trong phong trào “Phản Thanh, phục Minh” du nhập vào Nam Kỳ, được cải biến). Tháng 2 năm 1916, thừa lúc nước Pháp đang tham dự Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), các Hội Kín ở Mỹ Tho và Gò Công nổi lên khởi nghĩa, trở thành 1 trong 13 tỉnh ở Nam Kỳ có phong trào khởi nghĩa sôi nổi nhất.
Cùng lúc với hoạt động của Hội kín Thiên Địa hội, từ năm 1908 xuất hiện một phong trào đấu tranh mới được gọi là phong trào Minh Tân (Minh đức Tân dân) do Trần Chánh Chiếu (Gilbert Chiếu) phát động, chủ trương cải cách xã hội, chấn hưng dân trí, bồi dưỡng dân khí và phát triển công thương, cạnh tranh với tư bản Pháp, giành độc lập cho đất nước.
Phong trào Minh Tân bị thất bại, nhưng nhân dân Mỹ Tho và Gò Công vẫn không nhụt chí, tiếp tục cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau, Tháng 7 năm 1910, nhà yêu nước Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân đưa từ Côn Đảo về quản thúc tại nhà ông Nguyễn Tử Vân. Tại đây, ông đã có tiếp xúc với các nhà yêu nước ở địa phương, đặc biệt, ông có cuộc gặp gỡ với Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy) – thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thơ văn yêu nước của Phan Châu Trinh có sức động viên tinh thần bất khuất của nhân dân ta.
Năm 1912, Đặng Vương Tá, người tham gia phong trào Đông du, gia nhập Việt Nam Quang phục Hội do Phan Bội Châu lập ở Quảng Châu – Trung Quốc, ông đã tập hợp những thanh niên yêu nước ở Gò Công thành lập cơ sở của tổ chức này và mang tên “Cộng Hòa Hội” do ông làm Hội trưởng và Nguyễn Văn Côn làm Phó Hội trưởng. Năm 1916, Đặng Vương Tá bị thực dân Pháp bắt, “Cộng Hòa Hội” tan vỡ. Để tiếp tục hoạt động, Nguyễn Văn Côn thành lập “Hội cúng Thánh Khổng Tử” gọi tắt là “Hội Thánh”, bề ngoài là tập hợp những người biết chữ Nho để đọc sách thánh hiền và cúng giỗ Khổng Tử, nhưng thực chất là thu hút thanh niên yêu nước, đọc sách báo tiến bộ và đóng góp tài chính để đưa người ra nước ngoài học tập. “Hội Thánh” có mối quan hệ chặt chẽ với những nhà yêu nước ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Bến Tre và một số tỉnh miền Tây Nam Kỳ, và từng cất giấu 100 khẩu súng cho cách mạng.
Năm 1919, cũng như nhiều nơi khác trên cả nước, ở Mỹ Tho và Gò Công dấy lên phong trào “tẩy chay hàng hóa Sinoa (Chinois)” với khẩu hiệu “Người An Nam không chịu gánh vàng đi đổ sông Ngô (ám chỉ Hoa Kiều) nữa”, “Hãy lập cửa hàng, cửa hiệu của người An Nam”… là việc tiếp nối của việc chống lại tư sản mại bản Hoa Kiều bắt tay với tư bản Pháp, lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam.
Các cuộc đấu tranh của nhân dân Tiền Giang cũng như các phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân cả nước, tuy diễn ra liên tục và sôi nổi, chống lại chế độ thống trị của thực dân Pháp, nhưng đều bị thất bại. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo Cách mạng đã trở nên hết sức gay gắt. Giữa lúc đó. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn là con đường cách mạng vô sản, đã tích cực chuẩn bị về mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Vào khoảng năm 1921 – 1923, Tôn Đức Thắng, người lãnh đạo Công hội Nam kỳ, thường xuyên đến xã Vĩnh Kim (Châu Thành) gặp gỡ những người yêu nước ở địa phương như Mai Bạch Ngọc, Huỳnh Văn Bộ, Nguyễn Văn Nhu, v.v…để xây dựng cơ sở cách mạng.
Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu – Trung Quốc. Ít lâu sau, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam kỳ ra đời.
Đầu năm 1927, Kỳ Bộ tuyển chọn một số thanh niên yêu nước và ưu tú ở Mỹ Tho và Gò Công cử sang quảng Châu dự học khóa huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng dạy, như Trần Ngọc Giải, Trần Văn Hòe, Lê Hoàng Chiếu, Nguyễn Trung Nguyệt, Nguyễn Văn Thìn, Dương Văn Ngươn, v.v… Sau khi hoàn thành khóa học, số thanh niên này được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, rồi trở về Mỹ Tho và Gò Công phát triển hội viên và xây dựng cơ sở cách mạng.
Cuối năm 1927, Tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Mỹ Tho ra đời, do Trần Ngọc Giải làm Bí thư. Tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Gò Công ra đời, do Nguyễn Văn Côn làm Bí thư.
Cũng vào cuối năm 1927, thực hiện chủ trương của Tỉnh hội, Chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xã Vĩnh Kim (Châu Thành) thành lập gánh cải lương toàn là nữ, mang tên “Đồng Nữ Ban”, gánh hát này tồn tại và đi biểu diễn đến năm 1936-1937 do Trần Ngọc Viện làm trưởng đoàn, nhằm lợi dụng sâu khấu để tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết chống ngoại xâm và bọn phong kiến tay sai, đồng thời tập hợp và rèn luyện thanh niên để đào tạo cán bộ cho cách mạng và gây quỹ, tạo điều kiện cho Tỉnh bộ có kinh phí hoạt động.
Năm 1928, Tỉnh hội phân công cán bộ, Hội viên thâm nhập vào nhà máy, hãng xưởng và vùng nông thôn, như Nguyễn Ngọc Ba làm công nhân ở nhà in Thịnh Vượng (thành phố Mỹ Tho), Nguyễn Văn Nguyễn làm công nhân ở Hãng Xáng Mỹ Tho để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin cho quần chúng lao động, trên cơ sở đó, vận động họ đứng lên làm cách mạng.
Các cuộc đấu tranh đòi dân sinh dân chủ liên tiếp nổ ra. Từ giữa tháng 8 năm 1929, Tỉnh ủy An Nam Cộng sản Đảng tỉnh Mỹ Tho được thành lập do Nguyễn Ngọc Ba làm Bí thư. Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Gò Công do Nguyễn Văn Côn làm Bí thư.
Trước nhu cầu thống nhất về tổ chức, ngày 3 tháng 2 năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập đại biểu các tổ chức Cộng sản họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) để thống nhất tổ chức thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối tháng 4 năm 1930, Tỉnh ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Mỹ Tho được thành lập, do Nguyễn Thiệu làm Bí thư.
Từ năm 1930, phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân Mỹ Tho và Gò Công dâng lên mạnh mẽ. Các tổ chức quần chúng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Hội cứu tế đỏ ra đời và phát triển nhanh chóng. Khẩu hiệu đấu tranh trong thời kỳ này là “chống cúp phạt, đòi tăng lương, giảm giờ làm” của công nhân, “giảm tô, giảm tức, tăng tiền công cấy, công gặt, chống bắt xâu” của nông dân.
Trong cao trào hưởng ứng phong trào Đông Dương Đại hội, hàng chục Ủy ban hành động từ tỉnh đến cơ sở được thành lập. Các tầng lớp nhân dân từ thành phố đến nông thôn đã lập những bản kiến nghị gửi Thống đốc Nam Kỳ đòi thi hành các quyền dân sinh, dân chủ như: Quyền tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do báo chí, giảm sưu, giảm thuế, tăng lương, bớt giờ làm, chia lại công điền công thổ cho dân nghèo.
Phong trào đấu tranh trong những năm 1936 – 1939 sôi nổi và rộng khắp, đặc biệt cuộc đình công do Công đoàn hãng Xáng (thành lập giữa năm 1936) có hơn 400 công nhân tham gia đình công, kéo dài suốt 40 ngày vào cuối năm 1936 để đòi chủ phải tăng lương, thi hành Luật Lao động, ngày làm 8 giờ, nghỉ 10 ngày/ năm có lương, cải thiện vệ sinh nơi làm việc, đủ nhà tắm và nước tắm, nấu chín nước uống, không nhận trẻ em dưới 18 tuổi vào làm việc, v.v…
Cuộc bãi công của 180 công nhân hãng dầu từ ngày 29/3 đến 3/6/1938 đã làm cho giới chủ khốn đốn. Nhiều cuộc đấu tranh đã có sự phối hợp giữa công nhân các xí nghiệp, hãng xưởng, giữa công nhân với nông dân, tiêu biểu như ngày 10/4/1939, công nhân hãng xưởng bãi công, công nhân nhà Đèn, sở Thùng, sở Tràng Tiền, Giếng Nước và nông dân các quận Chợ Gạo, Châu Thành đã vận động, quyên góp tiền bạc, lương thực để giúp đỡ. Tại Sài Gòn – Chợ Lớn có phong trào ủng hộ cuộc đình công của công nhân hãng Xáng rất mạnh. Sau hơn 1 tháng đình công, bọn chủ phải giải quyết một số yêu sách của công nhân.
Tháng 11 năm 1940, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Mỹ Tho, nhân dân Mỹ Tho đã vùng lên trong cuộc “tiến công trời” của Nam Kỳ khởi nghĩa. Trong cuộc khởi nghĩa này, lần đầu tiên trên đất nước ta, lá cờ đỏ sao vàng – lá cờ của Tổ quốc lần đầu tiên được xuất hiện tại đình Long Hưng, trung tâm của cuộc khởi nghĩa tại Mỹ Tho. Cũng là lần đầu tiên trên đất nước ta, thiết chế nhà nước dân chủ cộng hòa được thực thi.
Tuy cuộc khởi nghĩa Nam kỳ thất bại, nhưng nó đã trở thành cuộc diễn tập giành chính quyền của công nhân và nhân dân lao động tại Mỹ Tho và Gò Công. Cuộc khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 tại Mỹ Tho được diễn ra sớm hơn thành phố Sài Gòn 5 ngày và sớm hơn thành phố Hà Nội 1 ngày, trở thành một trong những địa phương giành chính quyền sớm trong cách mạng Tháng Tám của cả nước, ngày 18 tháng 8 năm 1945. Tại Gò Công vào ngày 22 tháng 8 năm 1945.
Suốt 30 năm (1945 – 1975) kiên cường kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, công nhân và nhân dân lao động tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã viết lên những trang sử oanh liệt. Phong trào đấu tranh của công nhân và người lao động trong các hãng xưởng, trong các nghiệp đoàn, trong các đô thị, trong vùng tạm chiếm; hoặc các phong trào thi đua sản xuất trong vùng giải phóng, các công binh xưởng, v.v… luôn dâng lên mạnh mẽ; Tiêu biểu cho các phong trào sản xuất, phục vụ chiến trường, đấu tranh chính trị và tham gia chiến đấu của công nhân Mỹ Tho và Gò Công trong hai cuộc kháng chiến có thể kể đến phong trào gia nhập công binh xưởng trong những năm đầu chống thực dân Pháp trở lại xâm lược (1946 – 1949) của công nhân hãng Xáng, của thợ đúc, thợ rèn, thợ hàn, thợ bạc ở Gò Công và Mỹ Tho với hơn 500 công nhân, mà nguyên liệu là đường rầy xe lửa, máy móc của hãng Xáng, thuốc đạn từ đồn Rạch Cốc; đồng, chì, kẽm do nhân dân và các đình chùa đóng góp. Phong trào tham gia đội võ trang công nhân của thị xã Mỹ Tho những năm 1946 – 1947, gây cho địch nhiều thiệt hại. Phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, tại các đô thị của công nhân và lao động sôi nổi suốt cả cuộc kháng chiến. Phong trào chống bắt lính, chống tăng thuế, phạt vạ, đòi tăng lương của công nhân tại các đô thị và vùng ven không ngừng dâng lên mạnh mẽ, kết hợp với các phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân, và đấu tranh vũ trang của các lực lượng vũ trang tạo nên sức mạnh to lớn, thành làn sóng cách mạng to lớn, nhấn chìm kẻ xâm lược và tay sai của thực dân Pháp.
Bước vào thời kỳ chống Mỹ cứu nước, sau khi Hiệp định Giơ-ner-vơ được ký kết, trước tình hình lật lọng của Mỹ ngụy không chịu thi hành, dưới sự lãnh đạo của Ban công vận, các nghiệp đoàn Mỹ Tho, Gò Công đã tập hợp 32.000 đoàn viên biểu tình đấu tranh với địch tạo khí thế đầy sôi động trong các vùng đô thị. Đầu năm 1956, phát huy những kết quả đã đạt được, các nghiệp đoàn tiểu thương ở chợ Mỹ Tho tổ chức mít-tinh ở trụ sở Liên hiệp nghiệp đoàn – đường Nguyễn Trãi.
Ngày 14/6/1958 tại rạp hát Viễn Trường, tên tỉnh trưởng Nguyễn Trân tổ chức cuộc tranh luận về chủ nghĩa Quốc gia với các tù nhân gồm 14 người toàn là ký giả và trí thức, nhưng Nguyễn Trân đã thất bại vì thái độ thẳng thắn đầy lý lẽ của các “tù nhân”. Cuộc tranh luận đã vạch mặt sự giả dối của chính phủ được gọi là “Quốc gia”.
Phong trào chống cướp đất, xáo canh, tăng tô của nông dân Mỹ Tho và Gò Công diễn ra rất quyết liệt. Đặc biệt ở Gò Công, nhân vụ quận trưởng Hòa Đồng cho phép 15 trường hợp địa chủ lấy ruộng của nông dân, các nghiệp đoàn nông dân và vùng nội ô phát động đấu tranh, được báo chí Sài Gòn đưa tin, tỉnh trưởng Gò Công buộc phải ra lệnh cho quận trưởng Hòa Đồng giải quyết theo yêu sách của nông dân.
Phong trào chống tăng thuế nổ ra liên tục, từ các chợ, bến bãi của 2 thị xã: Mỹ Tho và Gò Công lan đến các huyện, ngày một dân cao, tỉnh trưởng Trân phải chấp nhận yêu sách giữ nguyên thuế cũ.
Cuối tháng 9 năm 1960, cuộc biểu tình hơn 7.000 người kéo đến tòa Tỉnh trưởng đòi chấm dứt các cuộc càn quét khủng bố, buộc tên tỉnh trưởng phải nhận hơn 200 bản kiến nghị với hơn 3000 chữ ký. Quần chúng tiếp tục kéo đến nhà tên tỉnh trưởng, y hoảng sợ, cấp báo cho hiến binh, cảnh sát đến đàn áp, bắt đi 200 người. Sáng 30/9, các tầng lớp lao động, các tiểu thương đấu tranh và bãi thị đòi thả những người bị bắt. Trước tinh thần đấu tranh của quần chúng, tỉnh trưởng phải nhượng bộ, ra lệnh thả những người bị bắt.
Những năm 1961 – 1962, hàng chục cuộc đấu tranh của các nghiệp đoàn và công nhân lao động ở Mỹ Tho và Gò Công, với hàng vạn người tham gia, đòi chấm dứt khủng bố, chống đàn áp, chống bắt lính, đòi Tay –lo cút về Mỹ, chống quân sự hóa học đường, chống bắt hoạc sinh đi xâu xây dựng ấp chiến lược… liên tục nổ ra, làm lung lay bộ máy thống trị của chúng ở cơ sở.
Từ khi quân Mỹ nhảy vào miền Nam, nhiều cuộc đấu tranh chống cào nhà gom dân, nhiều cuộc đấu tranh của hàng ngàn công nhân chống thi công quốc lố Bốn. Hàng trăm cuộc đấu tranh của các Nghiệp đoàn đòi trả chợ cho người buôn bán, chống thuế TVA. Hàng trăm cuộc đấu tranh chống vi phạm Hiệp định Paris 27 -1 – 1973. Hàng trăm cuộc đấu tranh chống khủng bố, bắt lính… cùng với đấu tranh binh vận và đấu tranh vũ trang làm nên những chiến thắng trên chiến trường, góp vào chiến công chung của toàn dân tộc, để đi đến thắng lợi cuối cùng, kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược vào ngày 30/4/1975.[1]
Giai cấp công nhân Việt Nam tại tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho (thành phố Mỹ Tho được thành lập từ cuối năm 1967 ngang cấp tỉnh, trước đó là thị xã) ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Đó là những nông dân bị phá sản do nạn bóc lột và cướp bóc của thực dân và tay sai địa chủ, một số ít là dân nghèo thành thị bị bần cùng hóa, xin vào làm trong các hãng xưởng, bị bóc lột đến tận xương tủy, nên có tinh thần đấu tranh để giành quyền sống. Trong 2 cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, công nhân lao động trong vùng địch tạm chiếm tại Mỹ Tho và Gò Công tiếp tục bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người, đã phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng, đoàn kết cùng các giai tầng trong xã hội, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng tại địa phương, giữ vững tinh thần bất khuất trong đấu tranh với kẻ thù, nỗ lực góp phần cùng quân và dân tỉnh nhà, cùng cả nước hoàn thành thắng lợi vẻ vang cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
CHƯƠNG I
CÔNG ĐOÀN TỈNH MỸ THO – GÒ CÔNG
XÂY DỰNG PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG TRONG NĂM ĐẦU GIẢI PHÓNG
(THÁNG 5/1975 – 3/1976)
- BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho [2] được hoàn toàn giải phóng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 21 năm vô cùng gian khổ, hy sinh, nhưng đầy vinh quang của quân – dân tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho, góp phần cùng cả nước làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với thắng lợi này, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho, cũng như cả nước, một kỷ nguyên mới được mở ra: kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho bắt đầu xây dựng lại quê hương trong đổ nát và muôn vàn khó khăn:
Tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho vốn ở vào vị trí chiến lược, nằm trên trục đường quan trọng (quốc lộ 4) nối Sài Gòn với các tỉnh miền tây Nam Bộ, bên dòng sông Tiền – thủy lộ quan trọng nối biển Đông với nước bạn Campuchia, là hành lang của căn cứ cách mạng: căn cứ Đồng Tháp Mười, lại là cửa ngõ phía tây – nam của thành phố Sài Gòn, vì thế, trong hai cuộc chiến tranh, nơi này luôn diễn ra những cuộc đụng đầu lớn. Hàng chục vạn tấn bom đạn của đế quốc Mỹ đã trút xuống mảnh đất nhỏ bé này, gây biết bao đau thương, tang tóc cho đồng bào ta, gần nửa triệu người trở thành nạn nhân của chiến tranh. Nguy hiểm hơn, trong 9 năm trở lại xâm lược, thực dân Pháp tiến hành nhiều vụ thảm sát, có vụ giết một lúc hơn 100 người, đốt phá nhiều làng xóm, gây ra cảnh chết chóc điêu tàn trong nhiều năm; tiếp đó, trong 21 năm xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã sử dụng chất độc màu da cam để hủy diệt con người và môi trường sống của nhân dân tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho, gây ra hậu quả nghiêm trọng. Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học trên thế giới, nhiều loại chất độc Mỹ đã sử dụng ở Việt Nam, trong đó có vùng Mỹ Tho và Gò Công và thành phố Mỹ Tho có thể gây quái thai và những biến đổi nội tạng, tác hại lâu dài về mặt di truyền.
Bằng chiến tranh hủy diệt, bằng những thủ đoạn thống trị tàn bạo, bằng văn hóa nô dịch, đồi trụy, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã làm băng hoại xã hội miền Nam, trong đó có tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho, để lại những hậu quả nặng nề. Phim ảnh, sách báo đồi trụy, lối sống hiện sinh, sống gấp, áp phe, xì ke, ma túy, đĩ điếm, trộm cắp, cướp giựt, tống tiền, đồng bóng, bói toán… đã làm cho một bộ phận tuổi trẻ Mỹ Tho và Gò Công đi vào con đường trụy lạc. Nhiều thanh niên sống không lý tưởng, mất phương hướng, xa rời nền văn hóa dân tộc… đã làm cho xã hội dưới thời Mỹ và chế độ Sài Gòn như một mớ bòng bong, hỗn độn, đánh mất những giá trị tinh thần cao quý của dân tộc.
Tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho là nơi đứng chân của các cơ quan đầu não về chính trị và quân sự trong vùng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Nhiều đơn vị, sắc lính, cơ quan mật vụ, nhiều cơ sở văn hóa, kinh tế kỹ thuật đóng trên địa bàn cùng với lực lượng lao động trên nửa triệu người, do đó, chính quyền cách mạng và đội ngũ công nhân, viên chức, lao động tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách gay gắt trên tất cả các lĩnh vực: quân sự, kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa – xã hội.
Như hầu hết các tỉnh thuộc châu thổ sông Cửu Long, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho sau 30 năm chiến tranh tuy có những điều kiện thuận lợi về con người với tinh thần cách mạng cao, với nguyện vọng chung của nhân dân là xây dựng chủ nghĩa xã hội, với lực lượng lao động trẻ, thuận lợi về thiên nhiên ưu đãi, có nền nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, tuy nhiên sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, năng suất còn rất thấp, từ 2,5 đến 3,5 tấn/ha, một số nơi ở Gò Công chỉ sản xuất được một vụ, nhiều nơi khác, đặc biệt vùng Đồng Tháp Mười gần như còn bỏ hoang. Nhiều thôn xóm bị bom đạn và chất độc của Mỹ làm cho xác xơ. Trong lòng đất còn nhiều bom đạn sót lại, dễ gây thương vong cho người sản xuất. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 có hàng ngàn gia đình bị thiếu ăn.
Hệ thống thủy lợi chưa phát triển. Kinh mương hầu hết dựa vào tự nhiên nên không có nước sản xuất tại các vùng đất cao trong mùa khô. Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào mùa mưa nên chưa thể chủ động tăng vụ để đưa năng suất lên cao hơn.
Chăn nuôi phân tán và nhỏ lẻ, chủ yếu tự cung tự cấp, chăn thả tự do, một phần nhỏ dư thừa được trao đổi trở thành hàng hóa. Việc chăn nuôi tự do đang làm cho môi trường ngày càng ô nhiễm, một số dịch bệnh không kiểm soát được.
Hệ thống giao thông đượng bộ và đường thủy khá phát triển. Đường liên tỉnh, liên huyện nhìn chung còn tốt. Xe hai bánh có thể chạy về được phần lớn các ấp. Tuy nhiên, xe bốn bánh chỉ về được trung tâm huyện và một số ít xã trong tỉnh. Còn phần lớn các xã xe bốn bánh không thể đến trung tâm xã được, do đường hẹp và còn nhiều cầu khỉ. Giao thông chủ yếu bằng đường thủy.
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chưa được đầu tư thỏa đáng nên gần như không đáng kể, chủ yếu một số cơ sở gò, hàn, sửa chữa tàu, xe, máy bơm nước, mộc, … phục vụ nông nghiệp và cư dân trên địa bàn.
Sản xuất hàng tiêu dùng luôn bị đình đốn do thiếu nguyên vật liệu sản xuất, thiếu thiết bị thay thế.
Hệ thống thông tin liên lạc chưa phát triển. Bưu điện chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Ấn phẩm văn hóa thường do tư nhân đảm nhiệm và ít đến được vùng sâu vùng xa.
Y tế chủ yếu phát triển ở tuyến tỉnh và tuyến huyện nhưng bệnh viện còn sơ sài, thuốc thang chưa đáp ứng nhu cầu của người bệnh. Đội ngũ y bác sĩ còn thiếu trầm trọng. Tuyến y tế cơ sở chưa phát triển. Vật chất kỹ thuật ở các nhà thương và một số nhà hộ sinh tư nhân chưa đáp ứng.
Trình độ học vấn trong nhân dân còn thấp, một bộ phận nông dân mù chữ, giáo dục phổ thông chỉ tập trung ở thành phố Mỹ Tho và các thị trấn ở quy mô nhỏ và vừa. Sự phát triển giáo dục trước năm 1975 mất cân đối giữa vùng nông thôn và thành thị. Giáo dục mẫu giáo chưa phát triển thành hệ thống. Phần lớn trẻ đến tuổi đi học ở nông thôn Mỹ Tho và Gò Công chưa được đến trường.
Điện thắp sáng chỉ có ở các trung tâm thành phố Mỹ Tho và thị trấn Gò Công, nhưng chủ yếu phục vụ cho các cơ quan và một số ít gia đình. Các xã ngoại thành và vùng nông thôn chưa có điện.
Toàn tỉnh chỉ có khoảng 3% dân số sử dụng nước máy. Toàn bộ vùng ngoại ô và vùng nông thôn không có nước sạch, chủ yếu sử dụng nước kinh, mương hoặc ao đìa, một số ít trữ nước mưa trong các lu để làm nước sạch sử dụng trong mùa khô.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, hơn 70.000 người phục vụ cho chế độ Sài Gòn và binh lính tan rã tại chỗ. Súng ống, chất nổ, quân trang, quân dụng của các sắc lính, tài liệu vứt bừa bãi, ngổn ngang khắp các chi khu, căn cứ quân sự, các trại lính, đồn bót, các công sở và các đường phố. Cảnh khói lửa, hỗn loạn và đói khát trùm lên các thành phố Mỹ Tho, các thị trấn và các khu vực Mỹ – ngụy từng đóng quân.
Hàng vạn binh lính của chế độ Sài Gòn cùng gia đình mất nguồn viện trợ của Mỹ trở thành thất nghiệp, sống trong lo âu, một số đang cần được cứu đói.
Cơ sở vật chất mà chế độ cũ để lại chủ yếu phục vụ cho chiến tranh nên không phù hợp với thời kỳ xây dựng. Tuy nhiên, do yêu cầu về công sở một cách cấp bách, một số cơ quan của địch hoặc một số nhà ở dân dụng không còn người ở được sử dụng làm cơ quan tạm thời trong thời gian đầu mới giải phóng.
Mặc dù đã bị thất bại hoàn toàn, chiến tranh đã kết thúc, nhưng một số sĩ quan, binh lính, công chức chế độ cũ vẫn ngấm ngầm hoạt động chống phá chính quyền cách mạng, gây những khó khăn nhất định trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh của nhân dân ta.
Nhiều người từng ly tán trong chiến tranh, nay trở về quê cũ làm ăn. Một số cán bộ tập kết ra miền Bắc theo hiệp định Genève 1954, lần lượt trở về sau 21 năm xa cách. Một số người trong các lực lượng vũ trang hoạt động trên các chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ ra quân trở về quê cũ, một số cán bộ Dân – Chính – Đảng từ căn cứ trở về, tất cả đều cần có nơi ở và cuộc sống ổn định để tiếp tục công tác.
Trong bối cảnh đặc biệt này, ngay trong những ngày đầu được giải phóng, công nhân viên chức và lao động Mỹ Tho – Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã sát cánh cùng các lực lượng vũ trang chiếm lĩnh và làm chủ các cơ quan, công sở, xí nghiệp trọng yếu của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nhanh chóng ổn định tình hình và bắt tay ngay vào việc khắc phục hậu quả chiến tranh.
CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH
Vào thời điểm giải phóng, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho có diện tích khoảng 2.366 km2, dân số khoảng 1.200.000 người (chưa kể những người trở về quê cũ sau chiến tranh). Trong đó, số lượng công nhân viên chức và lao động có khoảng 60.000 người, trong số này, công nhân các xí nghiệp chỉ chiếm 1,66%, hầu hết bị phân tán, rời rạc như sở Điện, Bến Bắc, sở Vệ Sinh, giao thông công chánh, cấp nước v.v… Lực lượng lao động chiếm 55%, sống tập trung ở thành phố Mỹ Tho và các thị trấn, phần lớn là buôn bán, viên chức của các ty, sở và cơ quan hành chánh.
Để thiết lập trật tự trị an và tổ chức các hoạt động sản xuất, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Mỹ Tho, Tỉnh ủy Gò Công và Thành ủy Mỹ Tho, ngay từ những phút đầu quê hương được giải phóng, các đồng chí trong tổ chức Công vận của Khu Tám nhanh chóng huy động lực lượng cán bộ, công nhân viên chức và lao động tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Các đoàn thể quần chúng và tổ chức chính trị có kinh nghiệm về tập hợp và tổ chức quần chúng đấu tranh trong kháng chiến, nay tiếp tục nhận nhiệm vụ mới, vận động các tầng lớp nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và tham gia các phong trào do chính quyền cách mạng phát động.
Ngày 2 tháng 5 năm 1975, theo sự chỉ đạo của Khu ủy khu Trung Nam Bộ, Ủy ban Quân quản tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho được thành lập. Thực hiện chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam về hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, Ủy ban Quân quản kêu gọi binh lính, nhân viên chế độ cũ ra trình diện để được khoan hồng và đối xử nhân đạo, tập trung giáo dục, cải tạo, nhanh chóng hòa hợp vào cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Để góp phần vào việc ổn định tình hình trong tỉnh, cán bộ, công nhân viên chức dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đã tổ chức nhiều hoạt động như giữ gìn trật tự trị an, tiếp quản cơ sở vật chất của chế độ cũ, nhanh chóng sắp xếp nơi làm việc để không bị gián đoạn, cùng các đoàn thể cách mạng, đặc biệt là các Ban quân sự địa phương tổ chức các điểm đăng ký, tạo điều kiện cho binh lính và nhân viên dưới chế độ cũ trình diện, học tập cải tạo được thuận lợi. Việc đăng ký, trình diện được tổ chức thành nhiều đợt và nhiều địa điểm. Ngay trong tuần đầu tiên, đã có hơn 10.000 người ra trình diện, được phân loại và hướng dẫn việc học tập, cải tạo.
Hầu hết công nhân trong các lĩnh vực kinh tế của chế độ cũ được chính quyền cách mạng giữ lại, tiếp tục làm việc. Hầu hết giáo viên, y bác sĩ, nhân viên bưu điện, điện lực… được chính quyền cách mạng xem xét, trưng dụng phù hợp với khả năng. Nhà máy đèn, nhà máy nước, ty Vệ sinh vẫn tiếp tục hoạt động để phục vụ sinh hoạt của nhân dân ở thành phố Mỹ Tho và các thị trấn trong tỉnh.
Trong lúc chính quyền cách mạng và nhân dân ta ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh thì một số tên từng phục vụ chế độ cũ, từng làm việc trong các cơ quan hoặc quân đội của chúng chưa chịu ra trình diện, không những thế, chúng tìm cách chống phá chính quyền cách mạng, tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách hòa giải dân tộc của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tàng trữ vũ khí, âm mưu hoạt động vũ trang phản cách mạng.
Trong tình hình phức tạp này, cán bộ, công nhân viên chức và lao động tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban Quân quản các cấp nhanh chóng tiếp tục hoạt động chuyên môn trong điều kiện mới. Một số ngành có liên quan tới đời sống thường nhật của nhân dân như y tế, điện lực, bưu điện, cấp nước, ngân hàng… đã nhanh chóng tiếp quản, tổ chức sản xuất, hoạt động nhằm ổn định sinh hoạt bình thường của nhân dân.
Ngay trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, các cán bộ y tế Khu Tám đã có mặt tại thành phố Mỹ Tho, kịp thời tiếp quản cơ sở vật chất của chế độ cũ, phân công cán bộ phụ trách từng địa phương, vận động các y bác sĩ được đào tạo từ dưới chế độ cũ tiếp tục làm việc nên việc điều trị bệnh nhân tại các bệnh viện không bị gián đoạn.
Công nhân nhà máy điện vào thời khắc giải phóng đã nhanh chóng quản lý cơ sở vật chất, tiếp tục đưa dòng điện phục vụ các cơ quan Đảng và chính quyền, các bệnh viện và hộ nhân dân. Nhờ vậy, sinh hoạt của nhân dân thành phố không bị xáo trộn.
Hệ thống thông tin liên lạc dưới thời chính quyền Sài Gòn chưa phát triển. Bưu điện tại thành phố Mỹ Tho có tổng đài tự động nhưng dung lượng không nhiều, chủ yếu điện thoại trang bị cho các cơ quan chính quyền. Các cán bộ thông tin Khu Tám đã nhanh chóng tiếp quản, cùng với công nhân ngành bưu điện tiếp tục hoạt động, thực hiện tốt công tác chuyển phát thư, một nhu cầu rất lớn của cán bộ và nhân dân ta về việc tìm thân nhân, liên lạc với gia đình sau ngày giải phóng, gắn một số điện thoại đến các cơ quan mới của chính quyền cách mạng, bảo đảm thông tin thông suốt cho các ngành các cấp trong nội ô thành phố Mỹ Tho và nội ô các thị trấn.
Công nhân ngành cấp nước, thoát nước trong ngày giải phóng nhanh chóng bảo vệ cơ sở vật chất của ngành, tiếp tục cung cấp nước cho thành phố và một số thị trấn, bảo đảm sự sinh hoạt bình thường của nhân dân.
Tại các trường học, đặc biệt trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu (thành phố Mỹ Tho) Thành Đoàn Mỹ Tho tổ chức kéo cờ giải phóng đầu tiên của thành phố Mỹ Tho trong sân trường. Một số thầy và học sinh dưới sự chỉ đạo của Thành Đoàn tổ chức bảo vệ cơ sở vật chất của nhà trường, cùng các lực lượng vũ trang và các tổ chức cách mạng tiếp quản khu vực xung quanh. Ngành giáo dục với lực lượng cán bộ từ Khu Tám nhanh chóng tiếp quản hệ thống trường lớp, thiết lập hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa, với chương trình đào tạo mới.
Ngành thông tin – văn hóa nhanh chóng tổ chức các đợt tuyên truyền về chính sách hòa giải dân tộc của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam bằng nhiều hình thức: chiếu phim, biểu diễn lưu động, băng- rôn, áp phích, in ấn tài liệu… kêu gọi binh lính và nhân viên phục vụ chế độ Sài Gòn đăng ký trình diện để học tập, cải tạo, hòa nhập vào đời sống cộng đồng.
Ngành tài chính – ngân hàng đã nhanh chóng tiếp quản toàn bộ cơ sở kinh tế tài chính của chế độ cũ để lại, bao gồm các cơ quan tài chính, thuế, ngân khố, ngân hàng, các cơ sở sản xuất kinh doanh trực tiếp phục vụ chiến tranh, các cơ sở hoạt động kinh doanh công thương nghiệp của tư sản mại bản.
Các ban ngành, các tổ chức cách mạng ngay trong ngày tiếp quản đã nhanh chóng đi vào hoạt động, gìn giữ trật tự trị an, thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quyền cách mạng, cùng các cấp giải quyết nạn đói, nạn thất nghiệp đã trở nên trầm trọng nhằm ổn định đời sống nhân dân.
Trong không khí hồ hởi và bận rộn của những ngày đầu tiếp quản, sáng 15 tháng 5 năm 1975, tại sân banh thành phố Mỹ Tho (nay là Trung tâm văn hóa Thiếu nhi tỉnh Tiền Giang), hơn 25.000 đồng bào đại diện cho nhân dân tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho tham dự mít tinh trọng thể chào mừng thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và ra mắt Ủy ban Quân quản tại Mỹ Tho gồm 13 thành viên do đồng chí Lê văn Nhung (tức Tư Việt Thắng, còn gọi đồng chí 204) làm Chủ tịch.
Sau khi được thành lập, Ủy ban Quân quản các địa phương, các cấp đã xây dựng bộ máy hành chính theo điều kiện thực tế của từng địa bàn để triển khai thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của chính quyền cách mạng. Ủy ban Quân quản các địa phương thực hiện nhiều biện pháp hoạt động có hiệu quả trong việc thiết lập trật tự xã hội mới, giữ vững và củng cố an ninh chính trị, từng bước ổn định đời sống nhân dân, đặc biệt là vận động số công chức và binh lính chế độ cũ ra trình diện, được hưởng chế độ khoan hồng của cách mạng.
Những ngày đầu sống trong không khí hòa bình, mặc dù có cảnh hỗn độn khi không ít sĩ quan, binh lính và nhân viên phục vụ dưới chế độ cũ băn khoăn, lo lắng, nhưng bao trùm lên tất cả là niềm vui vô bờ bến của ngày đại thắng. Dường như không còn khái niệm ngày đêm, cán bộ, công nhân viên chức, các lực lượng vũ trang và người lao động mỗi người tự tìm lấy công việc của mình để giúp chính quyền cách mạng ổn định cuộc sống của nhân dân. Đường phố, đường làng nhanh chóng được dọn dẹp, nhiều cơ sở của chính quyền Việt Nam Cộng hòa được nhanh chóng tiếp quản và sử dụng, nhiều chiếc cầu tạm thời được bắc lại, nhà cửa của nhân dân được sửa sang sau nhiều năm tháng chiến tranh. Đường sá trở nên phong quang hơn. Chính quyền cách mạng giải quyết kịp thời nạn thiếu lương thực, giúp gia đình bính lính chế độ cũ trở lại cuộc sống bình thường. Đồng ruộng bắt đầu được khai phá thêm. Nhiều người đi tìm thân nhân. Các cảnh đoàn tụ đều diễn ra một cách cảm động. Các cơ quan dần trở lại hoạt động bình thường. Cuộc sống mới được bắt đầu trên quê hương từng chịu nhiều bom cày đạn xới.
Để làm tốt công tác quản lý kinh tế, điều hành sản xuất và phân phối lưu thông, theo tinh thần Nghị định số 03/NĐ.75, ngày 2 tháng 6 năm 1975 của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời, tổ chức Công vận trong kháng chiến được chuyển thành tổ chức Công đoàn.
Các đồng chí trong Ban Công vận từ Khu Tám về được chuyển sang nhiệm vụ công tác Công đoàn.
Tổ chức Công đoàn được sự lãnh đạo của Đảng bộ tại địa phương, lấy nhiệm vụ chính trị của địa phương làm mục tiêu, vận động cán bộ, công nhân viên chức ra sức khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết chặt chẽ, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm tốt nhiệm vụ chuyên môn và tích cực tham gia hoạt động xã hội.
Trong tháng đầu tiên thực hiện nhiệm vụ công tác Công đoàn, Công đoàn tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã cùng với chính quyền cách mạng giải quyết tốt việc phân loại xét lưu dụng công nhân viên chức. Sau khi học tập chính sách mới của chính quyền cách mạng, số công nhân viên chức này đều đến công sở làm việc. Đối với số công nhân viên chức chờ chính sách lưu dụng thì tạm cấp một số tiền để họ ổn định cuốc sống.
Tại thành phố Mỹ Tho và thị trấn Gò Công, trước ngày giải phóng, do chiến tranh, nhiều nông dân chạy ra thành thị sinh sống, nảy sinh tình trạng thiếu việc làm. Để giải quyết vấn đề này, Tỉnh ủy Mỹ Tho, Tỉnh ủy Gò Công và Thành ủy Mỹ Tho chủ trương vận động và tiếp nhận đồng bào đô thị về nông thôn xây dựng kinh tế mới. Thực hiện chủ trương này, tổ chức Công đoàn đã tham gia cùng với chính quyền đưa lực lượng lao động gồm: nông dân bị địch gom tát dân, di dân lánh nạn ở đô thị, quần chúng lao động bị thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp, số lính của chế độ cũ tan rã tại chỗ, nhân viên chế độ cũ không được lưu dụng… về các vùng nông thôn xây dựng cuộc sống mới. Số dân này đều được chính quyền cách mạng phân phối đất đai, giúp vốn và hướng dẫn sản xuất.
Lực lượng lao động đông đảo tại các đô thị của Mỹ Tho và Gò Công là anh chị em lao động cá thể, Công đoàn và các đoàn thể có kế hoạch giáo dục về chính trị và tư tưởng, tạo công ăn việc làm nên tin tưởng vào đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước, tham gia tích cực vào các tổ chức cách mạng và phong trào thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, các phong trào lao động xã hội chủ nghĩa, đảm bảo trật tự trị an đường phố, tham gia vào các hoạt động tập thể, các phong trào văn hóa, văn nghệ.
Tại các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng tranh chấp trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, do chiến tranh ác liệt, việc sản xuất bị ngưng trệ đã xảy ra nạn đói. Chính quyền cách mạng cử cán bộ đến từng gia đình, trong đó có những gia đình neo đơn có công với cách mạng thăm hỏi và cấp hàng trăm giạ lúa để cứu đói.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, cán bộ, công chức, viên chức nắm giữ các ngành trọng yếu như giao thông vận tải, bưu điện, tài chính – ngân hàng, nhà máy điện, nhà máy nước, văn hóa, giáo dục, y tế, thương nghiệp, đóng góp đáng kể vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong nhửng tháng đầu tiên sau ngày quê hương được giải phóng.
Trong tình hình tỉnh nhà mới được giải phóng, quần chúng còn đang phân vân, hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội còn đang xáo trộn, bộ máy quản lý của chính quyền cách mạng vừa mới xây dựng, về trình độ công nhân viên chức có sự chênh lệch và điều kiện làm việc của cán bộ công đoàn còn rất nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức Công đoàn đã đóng góp một phần đáng kể vào công tác quản lý xã hội. Tuy lực lượng cán bộ, công nhân viên chức có sự chênh lệch về trình độ chính trị, tư tưởng, văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ nhưng tổ chức Công đoàn được sự lãnh đạo của Đảng bộ đã thực hiện được chức năng là một thành viên của hệ thống chuyên chính vô sản trong sự nghiệp chuyển hướng của cách mạng sang thời kỳ mới: cải tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ quý III năm 1975, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, nhiều phong trào thi đua được phát động, như: “Phong trào thi đua lao động sản xuất”, “Phong trào tham gia làm thủy lợi”, “Phong trào cải tiến kỹ thuật”, “Chùm hoa sáng kiến”… tạo được không khí thi đua sôi nổi trong cán bộ, công nhân, viên chức tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho.
Trong không khí thi đua, cán bộ, công nhân viên chức luôn đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng, các chính sách của chính quyền cách mạng, đóng góp một phần đáng kể vào việc quản lý xã hội. Trong những tháng đầu tiên sau giải phóng, cán bộ, công nhân viên chức đã cùng với các cấp chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang vận động, tổ chức cho 49.189 binh lính, nhân viên chế độ cũ[3] ra trình diện, học tập, cải tạo. Đặc biệt, trong các cơ quan, lực lượng dân quân tự vệ nhanh chóng được thành lập và được huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng. Hàng ngàn thanh niên công nhân tham gia lực lượng dân quân tự vệ một cách tích cực. Ngày đêm canh gác, bảo vệ tốt tài sản xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự trị an, hăng hái tham gia các phong trào thi đua do tổ chức công đoàn phát động, góp phần vào ổn định tình hình, quản lý xã hội và tạo ra gương mặt mới của quê hương sau ngày giải phóng.
Bằng các phong trào thi đua được tổ chức Công đoàn phát động, công nhân viên chức của tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho trong các quý III, IV năm 1975 và quý I năm 1976 đã tạo ra hàng chục sáng kiến có giá trị, tiết kiệm cho Nhà nước trên 50.000 đồng, hơn 7.000 nam nữ công nhân viên chức tham gia làm thủy lợi và lao động xã hội chủ nghĩa, hoàn thành 19 công trình trước thời gian, chở miễn phí cho nông dân đi làm thủy lợi hơn 30.000 người, sản xuất 6.000 nông cụ cầm tay, xẻ hơn 5.000 m3 gỗ, sửa chữa 340 máy cày và hơn 1.000 máy bơm nước. Riêng cơ sở 1 tháng 5 đang đóng 1 tàu hút bùn để kịp thời phục vụ nông nghiệp vào quý III năm 1976. Công đoàn các cấp còn kết hợp với chính quyền đưa hàng ngàn người lao động tự do đi xây dựng vùng kinh tế mới, vào các tổ hợp tác làm nghề tiểu thủ công hoặc về địa phương để sản xuất, góp phần ổn định đời sống của người lao động.
Để các thành phần tư bản, tư doanh hiểu được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Công đoàn đã có nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục, giúp các thành phần này nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về việc xóa bỏ chế độ người bóc lột người, về chế độ làm chủ tập thể, về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, động viên công nhân lao động quản lý sản xuất, quản lý sản phẩm, thành phẩm, chống gian lận, lương lậu, làm không đúng quy cách, không đảm bảo phẩm chất, chống sa thải công nhân vô cớ của các chủ tư nhân.
Công đoàn đã cùng với chính quyền và Đoàn thanh niên tổ chức học tập văn hóa và nghiệp vụ tại chức ngoài giờ, xóa nạn mù chữ trong công nhân viên chức. Tại các cơ quan, xí nghiệp, công đoàn tổ chức sinh hoạt văn nghệ quần chúng bằng nhiều hình thức phong phú, tự biên tự diễn, nội dung hướng vào các chủ đề phục vụ giáo dục chính trị, sản xuất, phản ánh các hoạt động của cơ quan, xí nghiệp…, lối sống lành mạnh và gương người tốt việc tốt. Hầu hết các xí nghiệp sản xuất, kinh doanh, các cơ quan hành chính đều có báo tường. Các xí nghiệp có từ 120 công nhân đều xây dựng đội văn nghệ không chuyên, đội bóng chuyền hoặc cầu lông. Các khu vực đều tổ chức thi đấu, tạo không khí vui tươi, lành mạnh trong công nhân.
Từ khoảng 1.000 công nhân (vào thời điểm ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975), chủ yếu là công nhân sở Điện, Bến Bắc, sở Vệ sinh, sở Giao thông công chánh, cấp nước …, đến tháng 3 năm 1976, với lực lượng công nhân từ căn cứ cách mạng, từ vùng giải phóng, từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và công nhân viên chức tân tuyển, công nhân lao động của tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã có 45 cơ sở, với hơn 10.000 người, có tổ chức đoàn thể chặt chẽ như Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Phụ nữ… Đây chính là lực lượng trọng yếu, nòng cốt trong xây dựng xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.
Dù chỉ 10 tháng (từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 3 năm 1976), lại ở một giai đoạn đặc biệt, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho cũng như toàn miền Nam vừa đi qua 2 cuộc chiến tranh tàn khốc, hàng vạn người đã ngã xuống vì nền độc lập của dân tộc, hàng ngàn thương bệnh binh, hàng ngàn người bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam mà đế quốc Mỹ cố tình gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, hàng vạn người không có công ăn việc làm, hàng chục vạn người đang thiếu đói… cán bộ, công nhân viên chức của tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã nỗ lực phấn đấu nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách sau ngày giải phóng, tham gia các phong trào cách mạng, xóa nạn đói, tạo điều kiện về công ăn việc làm cho người lao động, giữ gìn trật tự – an ninh, góp phần nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định tình hình kinh tế – xã hội.
X X
X
Với những cố gắng vượt bậc, chỉ trong 10 tháng, cán bộ, công nhân, viên chức tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đã có những đóng góp to lớn vào công tác xây dựng và quản lý xã hội, thực hiện chức năng là một thành viên của hệ thống chuyên chính vô sản trong sự nghiệp chuyển hướng của cách mạng sang thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong 10 tháng đầu tiên sau ngày giải phóng, tổ chức Công đoàn của tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã phát triển nhanh chóng về lực lượng và chất lượng cán bộ, công nhân viên chức và lao động, góp phần cùng chính quyền làm tròn nhiệm vụ quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; luôn đi đầu trong mọi phong trào cách mạng; khắc phục mọi khó khăn, nhanh chóng khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân. Thành tựu to lớn ấy bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của các Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò công và thành phố Mỹ Tho, từ sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng tại cơ sở; từ sự đoàn kết, đồng lòng, nhất trí giữa các lực lượng từ trong kháng chiến, từ các cơ quan dưới chế độ cũ được sử dụng, từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, từ lực lượng trẻ sau ngày giải phóng được tuyển dụng… tất cả vì sự no ấm của quê hương; Thành tựu ấy còn từ sự giáo dục nâng cao ý thức, năng lực và trách nhiệm làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa cho công nhân của tập thể cán bộ làm công tác công đoàn, làm cho tư tưởng làm chủ tập thể trở thành động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của cán bộ, công nhân viên chức và người lao động.
CHƯƠNG II
CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG XÂY DỰNG
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG
TRONG CÔNG CUỘC CẢI TẠO XÂY DỰNG
QUAN HỆ SẢN XUẤT MỚI (3/1976 – 6/1988)
- BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Vào đầu năm 1976, sau 8 tháng nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, bộ mặt của quê hương Mỹ Tho, Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã có những thay đổi đáng kể.
Từ một vùng đất vốn là cửa ngõ phía Tây – Nam của thành phố Sài Gòn, nơi đế quốc Mỹ cho là vùng “yết hầu” nối đồng bằng sông Cửu Long với thành phố Sài Gòn – đầu não của bộ máy chiến tranh do Mỹ và chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hòa tiến hành suốt 21 năm (1954 – 1975), nơi Mỹ lập căn cứ quân sự cấp sư đoàn tại đồng bằng sông Cửu Long, vì thế vùng đất này phải hứng chịu nhiều bom đạn trong chiến tranh. Hậu quả của chiến tranh rất nặng nề. Sau ngày giải phóng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho đã làm hết sức mình để biến vùng đất đầy bom đạn của chiến tranh thành những xóm làng, vườn cây, ruộng lúa; hàng vạn người bị thiếu – đói được giải quyết; hàng vạn người được trở về quê hương làm ăn sinh sống; Hàng ngàn người được đi vùng kinh tế mới, bước đầu giải quyết được công ăn việc làm; Các tệ nạn xã hội như xì ke, đĩ điếm, trộm cướp… được giảm đáng kể; Nhân dân sống trong không khí hòa bình, tin tưởng vào tương lai sán lạn của đất nước, phấn khởi chăm lo sản xuất nhằm ổn định đời sống và tích lũy để có cuộc sống tốt hơn.
Đối với cán bộ, công nhân viên chức, qua các phong trào hành động cách mạng, các phong trào thi đua lao động sản xuất, đội ngũ công nhân của Mỹ Tho và Gò Công trưởng thành nhanh chóng, từ chưa đầy 1.000 người, chỉ sau 8 tháng lên hơn 10.000 công nhân viên chức tăng gấp hơn 10 lần; nhiều sáng kiến đã đã làm lợi cho Nhà nước hàng chục ngàn đồng (thời giá 120 đồng/1 chỉ vàng), nhiều phong trào đã tạo ra một khí thế mới cho toàn xã hội trong việc tiến công vào đói nghèo, tiến công vào nạn mù chữ và các tệ nạn xã hội, góp phần đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân và ổn định trật tự xã hội.
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245/ NQ/TW về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh. Ngày 20 tháng 12 năm 1975 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 19 – NQ/TW về việc điều chỉnh hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam. Tháng 2 năm 1976 chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định số 03 – NĐ/76 về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh Tiền Giang được thành lập trên cơ sở hợp nhất 3 đơn vị hành chánh: tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho.
Thực hiện các Nghị quyết và Nghị định trên, Đảng bộ Tiền Giang được thành lập, do đồng chí Lê Văn Phẩm (Chín Hải) làm Bí thư. Đảng bộ Tiền Giang phát động đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong nhân dân, củng cố và xây dựng chính quyền cách mạng, đồng thời chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất của cả nước.
Tháng 3 năm 1976, Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang được thành lập, đồng chí Nguyễn Công Bình giữ chức vụ Chủ tịch. Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của các Ủy ban Quân quản trước đây và Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Tiền Giang: phát động quần chúng tích cực xây dựng chính quyền cách mạng, xác lập quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính quyền từ tỉnh đến cơ sở; tổ chức truy quét tàn binh, trấn áp bọn phản động, giữ vững an ninh trật tự, ổn định đời sống nhân dân, giải quyết việc làm cho quần chúng ở thành thị; xây dựng hệ thống thủy lợi, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, tổ chức khai hoang phục hóa, đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa; cũng cố và phát triển lực lượng chính trị, vũ trang, an ninh vũ trang; phát triển đảng viên vùng mới giải phóng để đủ sức lãnh đạo cơ sở chuyển hướng tư tưởng, tổ chức cho phù hợp với tình hình mới.
Cũng trong tháng 3 năm 1976, Tỉnh ủy Tiền Giang ra Nghị quyết thành lập Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang.
Trong buổi đầu thành lập Liên hiệp Công đoàn tỉnh, Tỉnh ủy Tiền Giang chỉ định một số đồng chí từng làm công tác công vận khu Tám sang công tác công đoàn, điều đồng chí Nguyễn Thị Cúc, từ Gò Công về phụ trách công tác công đoàn để thành lập Ban Chấp hành lâm thời.
Ngày 6 tháng 6 năm 1976, Hội nghị thống nhất Công đoàn toàn quốc khai mạc trọng thể tại dinh Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí Nguyễn Thị Cúc được dự Hội nghị này. Hội nghị đã đánh giá cao vai trò tổ chức Công đoàn trong cách mạng dân tộc dân chủ, đặc biệt vai trò của Liên hiệp Công đoàn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam. Hội nghị xác định nhiệm vụ chung của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn cả nước thống nhất là: “Phát động phong trào cách mạng sôi nổi của công nhân, viên chức, nêu cao ý thức làm chủ tập thể, đi đầu trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Sau 3 ngày làm việc, Hội nghị đã thông qua các Nghị quyết về thống nhất tổ chức Công đoàn cả nước, lấy tên gọi là Tổng Công đoàn Việt Nam, ở cấp tỉnh là Liên hiệp Công đoàn tỉnh.
Một số cán bộ từng công tác ở Miền (R), Khu hoặc cán bộ tập kết miền Bắc trở về được Tỉnh ủy điều động đến công tác tại Liên hiệp Công đoàn tỉnh. Hầu hết số cán bộ này đều có bề dày công tác và có nhiều thành tích trong kháng chiến, có kinh nghiệm trong công tác tổ chức, lãnh đạo, vận động quần chúng, nhưng lại thiếu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Được sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo của Tổng Công đoàn Việt Nam, cán bộ, công nhân viên chức tỉnh Tiền Giang bước đầu có những chuyển biến mới, xác định được vai trò làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, trở thành lực lượng đi đầu trong việc thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước, tiếp tục tấn công truy quét địch, bảo đảm an ninh trật tự xã hội, bảo vệ máy móc tài sản Nhà nước, đi đầu trong các cuộc vận động chính trị lớn như bầu cử Quốc hội thống nhất đất nước, bầu cử Hội đồng nhân dân, thi hành nghĩa vụ quân sự, xóa nạn mù chữ, cứu đói, tham gia cuộc vận động chính trị tiến tới Đại hội Công đoàn các cấp, thi đua sản xuất chào mừng Đại hội lần thứ IV của Đảng…
Nhiều chùm hoa sáng kiến xuất hiện, tiêu biểu như xí nghiệp Điện, ty Xây dựng, sáng kiến lọc nước của xí nghiệp Cấp nước, sáng kiến của bệnh viện Đa Khoa, tiết kiệm vật tư của bến phà Rạch Miễu, phà Mỹ Thuận, xí nghiệp cơ khí 1 tháng 5, “Ba cải tiến” của Ngân hàng… với tinh thần và khí thế mới.
Từ chỗ hoạt động Công vận trong kháng chiến với nhiệm vụ đấu tranh chống Mỹ và chế độ Sài Gòn, phá hoại cơ sở kinh tế của địch, đến Công đoàn trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, cán bộ, công nhân viên chức tỉnh Tiền Giang đã có sự chuyển biến quan trọng trong ý thức, trong lao động sản xuất, trên các mặt công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đặc biệt vào năm 1976, trong 40 công trình trong tỉnh đã có 32 công trình hoàn thành trước thời gian quy định, đã có 7.210 nam nữ công nhân viên chức đi làm thủy lợi và lao động xã hội chủ nghĩa, đóng góp đáng kể vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, góp phần tạo sự đổi mới rõ rệt vùng đất Tiền Giang năm đầu tiên sau ngày giải phóng.
- ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG LẦN I VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 1977 – 1980:
Từ ngày có Ban chấp hành lâm thời (tháng 3 năm 1976), hoạt động của Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang đi dần vào nề nếp. Ban chấp hành gồm các cán bộ có nhiều kinh nghiệm vận động quần chúng từ trong chiến tranh. Vì vậy, nhiều phong trào thi đua được phát động, tạo ra không khí làm việc sôi nổi, năng suất ngày một cao. Hầu hết các cơ quan, xí nghiệp, công trường đều tổ chức đăng ký thi đua. Ở khu vực sản xuất có phong trào “3 điểm cao” (Năng suất cao – Chất lượng tốt – Tiết kiệm nhiều). Ở khu vực hành chánh có phong trào “3 cải tiến” (Cải tiến lề lối làm việc – Cải tiến tổ chức – Cải tiến nghiệp vụ công tác), với tinh thần cách mạng tiến công, không ngừng phát huy tính tiên phong của giai cấp công nhân.

Trong không khí thi đua sôi nổi, cán bộ, công nhân viên chức tỉnh Tiền Giang đón nhận tin vui: ngày 6 tháng 6 năm 1976, tại Hội trường Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh , Hội nghị thống nhất Công đoàn toàn quốc được khai mạc trọng thể. Hội nghị diễn ra trong 3 ngày, đã đánh giá cao vai trò tổ chức Công đoàn trong cách mạng dân tộc dân chủ, đặc biệt, vai trò của Liên hiệp Công đoàn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam. Hội nghị xác định nhiệm vụ chung của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn cả nước thống nhất là: “Phát động phong trào cách mạng sôi nổi của công nhân, viên chức, nêu cao ý thức làm chủ tập thể, đi đầu trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Hội nghị đã thông qua các Nghị quyết về thống nhất tổ chức Công đoàn cả nước, lấy tên gọi là Tổng Công đoàn Việt Nam.
Sau Hội nghị lịch sử này, cũng như trong cả nước, cán bộ, công nhân viên chức và lao động tỉnh Tiền Giang đã dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất, nhằm chào mừng thắng lợi của Hội nghị thống nhất tổ chức Công đoàn toàn quốc và lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần I nhiệm kỳ 1977 – 1980 vào đầu tháng 11 năm 1976 và Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần I diễn ra vào giữa tháng 9 năm 1977.
Với tinh thần cách mạng tiến công, không ngừng phát huy tính tiên phong của giai cấp công nhân, cán bộ, công nhân viên chức tỉnh Tiền Giang đã tổ chức và phát động phong trào thi đua lao động sản xuất và tiết kiệm, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của tỉnh là xây dựng và phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất công – nông nghiệp phục vụ đời sống nhân dân.
Năm 1977, Tỉnh ủy chủ trương: “Ra sức khôi phục và phát triển sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp, đi đôi với phát triển công nghiệp nhẹ và tiều thủ công nghiệp… Giải quyết triệt để các tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới, con người mới, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, xóa bỏ tàn dư chế độ phong kiến”. Để thực hiện chủ trương của Đảng bộ Tiền Giang, Công đoàn Tiền Giang đề ra kế hoạch tổ chức đợt phát động trong toàn cán bộ, công nhân viên chức ra sức thi đua, thực hiện kế hoạch năm 1977 của từng đơn vị. Qua phát động, cán bộ, công nhân viên chức và lao động càng nhận thức sâu sắc “Thi đua là yêu nước”, “Tiết kiệm là quốc sách”. Từ đó, phong trào giành “ba điểm cao: năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều”, “ba cải tiến ở khu vực hành chánh sự nghiệp: cải tiến lề lối làm việc, cải tiến về tổ chức, cải tiến nghiệp vụ công tác” ngày càng trở nên sôi động. Đặc biệt là việc đăng ký thi đua trở thành “Tổ lao động xã hội chủ nghĩa” đã dấy lên thành phong trào thi đua sôi nổi, cuốn hút nhiều đơn vị sản xuất tham gia.
Đi đầu trong phong trào “Ba điểm cao”, “Ba cải tiến” và giành danh hiệu “Tổ lao động xã hội chủ nghĩa” là các đơn vị: xí nghiệp cơ khí 1/5, Phòng vệ sinh, sở Phà Rạch Miễu, phà Mỹ Thuận, ty Lương thực, sở Quản lý phân phối điện, ty Giao thông – Vận tải.
Với xí nghiệp cơ khí 1/5, cán bộ, công nhân viên chức đã tận dụng mọi thời gian, khắc phục về khó khăn, thiếu thốn về nguyên vật liệu và phụ tùng, tìm cách lo vật tư và khách hàng, thu gom phế liệu, sản xuất hàng ngàn dụng cụ cầm tay phục vụ nông nghiệp, đóng tàu hút bùn và sửa chữa tàu thuyền phục vụ vận chuyển đường sông, góp phần giải quyết việc thiếu thụt các phương tiện vận chuyển và dụng cụ làm việc của nông dân. Đặc biệt, xí nghiệp đã thiết kế, sản xuất dàn máy cày, máy xay cán, thiết kế lắp đặt trạm nổi.
Sở phà Rạch Miễu và Phà Mỹ Thuận đã hưởng ứng phong trào thi đua bằng cách hợp lý thao tác kỹ thuật lái phà qua sông, giảm hàng trăm lít dầu mỗi tháng, cải tiến neo phao bằng phương pháp thủ công tiết kiệm hàng ngàn đồng.
Công nhân phòng Vệ sinh đã có nhiều sáng kiến để thu gom rác có hiệu quả, không để ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân, tạo thông thoáng và vệ sinh cho thành phố, tiết kiệm thời gian và kinh phí mỗi tháng hàng trăm đồng.
Sở Quản lý phân phối điện có phong trào “lao động – sản xuất – tiết kiệm”, tìm kiếm hơn 2 tấn vật liệu phục vụ cho công trình thủy lợi, bảo đảm công trình vượt trước thời gian. Đặc biệt, tổ vận hành và điện kế với tinh thần làm chủ xí nghiệp đã góp phần chống thất thu, phát hiện tư nhân ăn cắp điện, truy thu hơn 1.500 đồng.
Ty Lương thực có nhiều cố gắng trong việc thu mua, xây dựng cơ bản, vượt kế hoạch thời gian quy định 5 ngày. Vượt tỷ lệ xay xát từ 2 – 3% mức xay xát do Bộ đề ra.
Ty Giao thông – Vận tải phục vụ tốt cho nông nghiệp, thủy lợi, xây dựng đường vào vùng kinh tế mới, vùng nông trường, chủ động phát động phong trào “sáng kiến kỹ thuật” phục vụ sửa chữa đầu xe, cải tiến xe Pal làm xe cẩu gỗ, xe tưới nhựa thành xe tưới nước, xe máy xăng thành xe máy dầu để tiết kiệm nhiên liệu; xây dựng lò đúc gang công suất 20 kg/ngày…
ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN LẦN I:
Sau khi dự Hội nghị cán bộ do Tổng Công đoàn triệu tập. Ngày 13 tháng 5 năm 1977, Ban Thường vụ Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang tiến hành cuộc họp về việc chuẩn bị tổ chức Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần thứ nhất và Đại hội Công đoàn cơ sở, phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ chịu trách nhiệm từng phần của Đại hội và thành lập Ban phục vụ Đại hội Công đoàn tỉnh.
Được Ban Thường vụ Tỉnh ủy chấp thuận, cho phép các cấp ủy lãnh đạo thực hiện việc mở Đại hội Công đoàn cơ sở như kế hoạch của Liên hiệp Công đoàn tỉnh. Từ giữa tháng 5 năm 1977 đến tháng 7 năm 1977, các đồng chí trong Ban Thường vụ và cán bộ Công đoàn tỉnh phân công nhau dự các Đại hội Công đoàn cơ sở, nắm tình hình diễn biến Đại hội và tháo gỡ những khó khăn phát sinh trong các Đại hội Công đoàn cơ sở. Tại thành phố Mỹ Tho và một số cơ quan, trường học tiến hành Đại hội sớm và thành công như: Công đoàn Quản lý và phân phối điện, Trường Thủy lợi III, ty Ngoại thương, trường Nông nghiệp Long Định, Chi cục Thống kê… Sự thành công của Đại hội tại một số cơ quan, trường học đã tạo tiền đề cho các Đại hội khác tổ chức được thành công.
Từ tháng 5 năm 1977, các văn kiện Đại hội được Ban Chấp hành lâm thời tổ chức biên soạn. Văn kiện được các tổ chức Công đoàn ngành và các cơ quan xí nghiệp đóng góp, đặc biệt, các tổ chức Công đoàn đã đóng góp nhiều vấn đề về báo cáo của Ban Chấp hành và phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 1977 – 1980 sát với tình hình thức tế và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Đảng bộ tỉnh, Điều lệ tổ chức Công đoàn (sửa đổi). Một số góp ý xoay quanh vấn đề cấp phát trang bị phòng hộ lao động, thống nhất tiền tệ ở miền Nam và miền Bắc ngang nhau, thống nhất chế độ bồi dưỡng ca 3, nặng nhọc, độc hại, chế độ cấp phát hàng công nghệ phẩm, chế độ khen thưởng, chế độ nâng lương, thành lập ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em…
Để Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ nhất trở thành một sự kiện chính trị quan trọng trong đời sống của cán bộ, công nhân viên chức và người lao động, Ban Thường vụ Liên hiệp Công đoàn tỉnh tổ chức đợt tuyên truyền về Đại hội, kéo dài từ tháng 6 năm 1977 đến khi Đại hội thành công. Trên đường phố Mỹ Tho, tại các cơ quan, xí nghiệp, các thị trấn xuất hiện nhiều khẩu hiệu về thi đua lập thành tích cao nhất để chào mừng Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần thứ nhất. Báo Ấp Bắc và Đài phát thanh Tiền Giang mở các chương mục về hoạt động Công đoàn và “tiến tới Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần thứ nhất”, tạo ra niềm phấn khởi trong cán bộ, công nhân viên chức và người lao động Tiền Giang.
Ngày 12 tháng 9 năm 1977, được sự đồng ý của Thường vụ Tỉnh ủy Tiền Giang, Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang tiến hành Đại hội đại biểu Công đoàn Tiền Giang lần thứ nhất, nhiệm kỳ 1977 – 1980. Đại hội được tổ chức tại Hội trường trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu – nội ô thành phố Mỹ Tho, với thời gian 4 ngày rưỡi.
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh, Phương hướng và nhiệm vụ công tác Công đoàn nhiệm kỳ 1977 – 1980. Tại Đại hội, nhiều tham luận đề cập đến nhiều vấn đề về công tác công đoàn, về việc phát động các phong trào thi đua, các hoạt động nổi bật trong các phong trào ở cơ sở, về việc chăm lo đời sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân viên chức, về đấu tranh cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Đại hội thông qua Nghị quyết của Đại hội và bầu Ban chấp hành nhiệm kỳ 1977 – 1980. Với sự nhất trí cao, Đại hội đã bầu 25 đồng chí vào Ban Chấp hành nhiệm kỳ mới và 9 đồng chí đại biểu dự Đại hội Công đoàn toàn quốc. Ban Chấp hành trong phiên họp đầu tiên tại Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Thị Cúc giữ chức vụ Thư ký, đồng chí Phạm Tửu được bầu làm Phó Thư ký Liên hiệp Công đoàn Tiền Giang [4].
Trong bối cảnh nhân dân trong tỉnh đang ra sức đẩy mạnh sản xuất nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang mở rộng diện tích canh tác, giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, ổn định tình hình trật tự trị an, Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần thứ nhất đã căn cứ vào thực tế của địa phương và chủ trương của Đảng bộ tỉnh, như:
– Đẩy mạnh công tác thủy lợi, đảm bảo tiêu chua, ngăn mặn, đưa nước ngọt cho vùng Gò Công, vùng khai hoang Tân Lập, Bắc Nguyễn Văn Tiếp, tập trung tăng cường hệ thống thủy nông, xây dựng nhiều trạm bơm cải tiến, hoàn thành 7 công trình lớn, khả năng tưới tiêu cho hơn 40.000 ha, đắp xong 10 đập và hoàn thành hệ thống đê vùng Gò Công, Tân Lập. Châu Thành, Cái Bè..
– Chú trọng tăng nhanh bắt và nuôi trồng hải sản, đến năm 1978 đạt 17.000 tấn tôm, 20.000 tấn muối; tổng giá trị công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 72 triệu, Vốn đầu tư xây dựng cơ bản đến năm 1978 đạt 60 triệu đồng, đưa 40.000 lao động đi xây dựng vùng kinh tế mới và chuyển vào nông trường quốc doanh.
Công đoàn tỉnh đề ra phương hướng và nhiệm vụ:
– Về công tác tuyên truyền giáo dục và rèn luyện công nhân viên chức mọi mặt:
Với mục tiêu: giác ngộ quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật, phấn đấu thi đua làm tròn nghĩa vụ lao động, mục tiêu là giành “ba điểm cao”, đạt “ba cải tiến”.
Cuối năm 1977 có 50% cán bộ, đoàn viên và công nhân viên chức tại mỗi cơ sở được tham gia học tập chính trị gồm các văn kiện chính, như: Nghị quyết tỉnh Đảng bộ Tiền Giang lần thứ nhất, Nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ nhất. Năm 1978 tiếp tục học hết số cán bộ công nhân viên còn lại. Lên kế hoạch học tập các bài giáo dục cơ bản của Tổng Công đoàn, Nghị quyết Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ IV và những bài chính trị cơ bản hướng về các chủ đề: Xây dựng chủ nghĩa xã hội; Ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; Quan điểm tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng; Xây dựng trách nhiệm và thái độ của người lao động mới, chống tư tưởng tự ti tự lợi, làm ăn theo lối sống cũ, lao động theo kiểu làm thuê.
Đối với các cơ sở tư bản, tư doanh, Công đoàn có kế hoạch giáo dục công nhân lao động giác ngộ giai cấp, từ đó chỉ ra sự bóc lột, gian dối của chủ tư bản. Dựa vào văn bản ký kết hợp đồng của chủ tư bản và Nhà nước mà vận động công nhân quản lý sản xuất, quản lý sản phẩm, thành phẩm, chống gian lận, làm dối, làm giả của chủ tư nhân và chống sa thải công nhân vô cớ.
Đối với việc nâng cao trình độ học vấn: công đoàn cơ sở cùng với chính quyền và Đoàn thanh niên phát động và tổ chức học tập văn hóa, nghiệp vụ tại chức ngoài giờ, tạo điều kiện phấn đấu hết năm 1978 có 50% cơ sở tổ chức được các lớp bổ túc văn hóa với tỷ lệ 60% đoàn viên công đoàn tham gia dạy và học các lớp cấp I có 30%, cấp II có 25%, cấp III có 5%. Riêng đối với cán bộ công đoàn các cấp phải gương mẫu học tập bổ túc văn hóa và nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ để thực thi nhiệm vụ.
Đối với hoạt động văn hóa – văn nghệ: Công đoàn cần phải tổ chức các hình thức sinh hoạt văn nghệ, kết hợp các hình thức văn nghệ quần chúng với hoạt động văn nghệ chuyên trách, từng bước nâng văn nghệ quần chúng tự biên tự diễn lên về hình thức lẫn nội dung, hướng vào các chủ đề phục vụ giác ngộ chính trị, sản xuất, phản ánh các hoạt động theo nếp sống mới, nêu gương người tốt việc tốt, tinh thần lao động sáng tạo của công nhân viên chức. Ở các xí nghiệp sản xuất, kinh doanh, các cơ quan cần sinh hoạt câu lạc bộ, đảm bảo 70% cơ sở có bích báo, các cơ sở lớn có từ 120 cán bộ, công nhân viên chức phấn đấu xây dựng một đội văn nghệ không chuyên.
Đối với thể dục thể thao: Để nâng cao thể lực, phòng chống bệnh tật, xây dựng nếp sống vui tươi lành mạnh trong công nhân viên chức với các hình thức như: bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu long, bơi lội v.v… Công đoàn các cơ sở tùy theo điều kiện cụ thể, tổ chức các hình thức thể thao cho thích hợp. Có nội quy thể dục hàng ngày và giữ vững hoạt động thể thao, thể dục thường xuyên 100% số cơ sở.
Về phong trào thi đua lao động sản xuất:
Đại hội chủ trương vận động một phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch, chỉ tiêu 2 năm 1977 – 1978 của tỉnh, làm đà cho việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 1976 – 1980.
Căn cứ vào chỉ tiêu, nhiệm vụ của tỉnh, được cụ thể hóa ở từng ngành, từng cơ sở, công đoàn các cấp cần dựa vào yêu cầu, mục tiêu của từng cơ quan xí nghiệp mà đề ra những khẩu hiệu hành động thích hợp.
Ở các xí nghiệp quốc doanh, cần thi đua hợp lý hóa sản xuất, tổ chức tốt lao động, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, bảo đảm ngày công giờ công và định mức lao động, khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong công tác, trong lao động, bảo đảm số lượng và chất lượng sản phẩm, giá thành hạ. Phát huy sáng kiến, tận dụng công suất máy, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên, vật liệu, tận dụng phế liệu, phụ tùng thay thế nhằm đạt “ba điểm cao: năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều”.
Ở các cơ quan, nội dung thi đua là bảo đảm thực hiện “ba cải tiến: cải tiến nghiệp vụ và kỹ thuật, cải tiến tổ chức và quản lý, cải tiến lề lối làm việc”. Chấp hành đúng các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước, phục vụ kịp thời cho các cơ sở sản xuất theo nhiệm vụ của từng cơ quan, phục vụ đời sống quần chúng.
Ở các xí nghiệp tư bản tư doanh, nội dung chính là phát huy tinh thần làm chủ tập thể của công nhân viên chức đối với xí nghiệp tư nhân, đề cao tinh thần trách nhiệm của công nhân lao động trong việc giám sát sản xuất kinh doanh theo đăng ký với Nhà nước, đấu tranh giảm chi phí không hợp lý trong quá trình sản xuất, đảm bảo nguyên tắc “Nhà nước có lợi, công nhân có lợi và phần lãi của chủ nhân hợp lý”.
Hàng năm, vận động mỗi công nhân đăng ký phát huy hoặc áp dụng 1 sáng kiến, mỗi cán bộ kỹ thuật có 1 đề tài hoặc sáng kiến, hay ứng dụng kỹ thuật, phấn đấu đến cuối năm toàn tỉnh có 1.100 sáng kiến.
Tổ chức, theo dõi các phong trào, mở các hội nghị sơ kết, tổng kết thi đua, hoặc mở hội nghị chuyên đề về thi đua, bàn giải quyết từng loại cơ sở, hướng chủ yếu là công nghiệp phục vụ đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
Về chăm lo đời sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân viên chức:
Công đoàn các cấp thực hiện kế hoạch giáo dục đoàn viên công nhân viên chức hiểu đầy đủ về khó khăn tạm thời của địa phương cũng như cả nước đang trong thời kỳ đầu xây dựng, còn rất nhiều thiếu thốn, bởi vậy cần tự lực tự cường, ra sức khắc phục mọi khó khăn, thực hiện tiết kiệm trong tiêu dùng, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, bảo vệ sức khỏe của nữ công nhân viên chức. Công đoàn lãnh đạo công nhân viên chức tự tổ chức cải thiện thêm đời sống, trên tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, tăng gia sản xuất.
Đối với công tác lao động tiền lương, tùy theo cương vị của công đoàn mỗi cấp mà tham gia với Ủy ban Nhân dân, với giám đốc xí nghiệp, thủ trưởng cơ quan kiểm tra viêc tuyển dụng lao động, cũng như cho thôi việc ở các xí nghiệp, cơ quan nhằm bảo đảm thực hiện đúng chính sách, chế độ của Nhà nước đã ban hành. Từng bước thực hiện chế độ lương theo sản phẩm, vận dụng các chế độ khuyến khích lao động bằng vật chất để nâng cao sản xuất.
Về đời sống, công đoàn các cấp cùng giám đốc các xí nghiệp và Thủ trưởng cơ quan chăm lo đời sống của công nhân viên chức, tham gia với ngành thương nghiệp, ngành lương thực, thực phẩm về tổ chức phân phối để đảm bảo được công bằng, thuận tiện, đúng tiêu chuẩn, đúng định lượng để phục vụ tốt 2 bữa ăn chính của công nhân viên chức. Đối với những đơn vị có nhà ăn tập thể cần vận động công nhân viên chức thi đua xây dựng nhà ăn đạt “ba tốt: ăn nóng, ăn đủ và sạch sẽ”, phấn đấu đến hết năm 1978 không còn nhà ăn “3 kém”. Các xí nghiệp, cơ quan cần tổ chức căn-tin và kiểm tra phân phối, đúng tiêu chuẩn, đúng định lượng.
Vận động và tổ chức tốt việc chăn nuôi thêm, tự trồng tỉa để cải thiện đời sống, mỗi tổ công đoàn lên kế hoạch tự túc một phần lương thực, thực phẩm cho bữa ăn của công nhân viên chức. Công đoàn đề nghị với Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, ty, phòng Thương nghiệp mở các cửa hàng phục vụ cho các bữa ăn của công nhân và nhân dân lao động ở thị xã, thị trấn.
Công đoàn cơ sở tham gia phân phối lương thực, thực phẩm và cùng với thủ trưởng cơ quan tổ chức hội đồng phân phối, tổ chức quần chúng kiểm tra việc phân phối, kiểm tra cửa hàng, căn –tin cơ quan và nhà ăn tập thể để tạo điều kiện cho các hoạt động thường xuyên và đúng đắn,
Việc giải quyết nhà ở cho công nhân viên chức cón nhiều khó khăn, nhiều cơ sở, bộ phận chưa có nhà để làm việc, kể cả phương tiện làm việc cũng chưa được giải quyết hợp lý. Liên hiệp Công đoàn có kế hoạch đề xuất với Ủy ban Nhân dân nghiên cứu có quy hoạch xây dựng, sửa chữa để từng bước giải quyết dần những khó khăn hiện nay, làm giảm bớt sự chật chội, nóng bức và ăn ở thiếu vệ sinh ở một số cơ sở.
Đối với công tác bảo hiểm xã hội, công đoàn thông qua hoạt động, nắm được công tác và điều kiện sức khỏe của công nhân viên chức, lập danh sách những người cần được bồi dưỡng đề nghị với Ban Bảo hiểm xã hội Tổng Công đoàn cho nghỉ dưỡng sức hay bồi dưỡng tại chỗ. Các công đoàn cơ sở thực hiện bình xét và báo cáo về Liên hiệp Công đoàn để giải quyết theo chính sách. Lập y bạ cho công nhân viên chức chưa có sổ khám sức khỏe. Thực hiện chính sách nghỉ ốm, thai sản, tai nạn lao động trong công nhân viên chức. Bảo đảm việc thu – chi đúng đối tượng và công bằng, hợp lý.
Tiến tới xây dựng nhà nghỉ khoảng 150 giường của tỉnh.
Đối với công tác phòng hộ bảo vệ an toàn lao động, công đoàn các cơ sở cần giáo dục ý thức phòng hộ lao động để tránh tai nạn trong khi sản xuất. Xử lý nghiêm khắc đối với cán bộ có trách nhiệm đã để xảy ra tai nạn. Đối với các cơ sở sản xuất cũ nay cho tiếp tục hoạt động, cần kiểm tra điều kiện sản xuất và những trang bị phòng hộ lao động cho công nhân và các tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp, xây dựng nội quy và quy trình quy phạm trong an toàn sản xuất, phổ biến cho toàn thể công nhân lao động học tập, quán triệt nội quy đó.
Công đoàn cần phát triển mạng lưới quần chúng, kiểm tra an toàn lao động.
Về công tác công đoàn trong đấu tranh cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh:
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh là một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, gay go và phức tạp, là cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa chủ nghĩa tư bản và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Để xóa bỏ giai cấp tư sản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, công nhân viên chức cần nhận rõ: chính sách của Đảng là ngọn đuốc soi đường, Nhà nước là người điều khiển thực hiện, công nhân là người trực tiếp tác chiến. Do đó, công đoàn phải tổ chức học tập cho công nhân lao động quán triệt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước một cách toàn diện, để có được đội ngũ hùng mạnh, kiên quyết tấn công liên tục để xóa bỏ giai cấp tư sản.
Trong phát động tư tưởng, công đoàn thông qua sự lãnh đạo của Đảng để phân loại lực lượng công nhân, qua đó vận dụng nội dung giáo dục thích hợp cho từng đối tượng. Tham gia ngăn chặn và hạn chế việc làm tiêu cực của chủ tư bản trong việc thực hiện hợp đồng với Nhà nước. Chống hành động mua chuộc cán bộ và gây khó khăn, hoặc cản trở hoạt động của công đoàn giúp Ban Cải tạo thực hiện tốt việc cải tạo tại cơ sở. Cử cán bộ có năng lực nằm trong Ban Cải tạo của tỉnh, góp phần hoàn thành nhiệm vụ cải tạo công – thương nghiệp tư bản tư doanh trong tỉnh.
Đối với lực lượng lao động tự do, tiểu thương, tiểu chủ, công đoàn cùng với Ủy ban và các đoàn thể quần chúng có kế hoạch tập hợp, giáo dục họ chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của Nhà nước, hướng dẫn họ đi vào sản xuất tập thể, làm ăn tập thể.
Về công tác kiện toàn tổ chức nâng cao năng lực hoạt động của Công đoàn các cấp:
Để phát huy được vai trò và hoàn thành nhiệm vụ công đoàn trong giai đoạn mới. Qua thực tế tình hình của tỉnh, yêu cầu bức thiết là: Khẩn trương xây dựng và kiện toàn tổ chức Công đoàn các cấp. Trước mắt bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cốt cán làm công tác công đoàn, song song với việc cải tiến mạnh mẽ phương pháp hoạt động công đoàn của các cấp, nhằm đáp ứng với phong trào công nhân viên chức và hoạt động công đoàn hiện nay. Đi sâu vào sản xuất, đi sát công nhân viên chức hơn nữa, làm cho công đoàn tiêu biểu cho ý chí cách mạng tiến công, quyền làm chủ và năng lực của giai cấp công nhân tổ chức xây dựng xã hội mới, quản lý nền kinh tế quốc dân, đi đầu trong việc tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Phấn đấu đến năm 1978 phát triển từ 70 đến 75% đoàn viên công đoàn trong tổng số công nhân viên chức cũ và mới. Tại các xí nghiệp tư doanh phát triển từ 50 đến 60% công nhân lao động vào công đoàn. 100% đoàn viên công đoàn đều được học chương trình chính trị phổ thông, những vấn đề cơ bản như: tính chất, vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn. Quản lý đoàn viên và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, quyền lợi của đoàn viên như Điều lệ đã quy định.
Công đoàn cơ sở tăng cường hướng dẫn tổ công đoàn, công đoàn bộ phận nắm vững nội dung công tác, phương pháp hoạt động và phạm vi trách nhiệm để phát huy tác dụng của tổ công đoàn và công đoàn bộ phận. Hướng tổ chức tổ công đoàn sát với điều kiện sản xuất, sát quần chúng, kết hợp với tổ công tác hoặc tổ sản xuất, qua đó tuyên truyền phát triển đoàn viên mới. Xây dựng lịch sinh hoạt tổ công đoàn và giữ được thường xuyên 1 tháng 1 lần, nôi dung ngắn gọn, thiết thực. Công đoàn bộ phận hướng cho tổ công đoàn và công đoàn bộ phận triển khai công tác, thường xuyên đi sâu đi sát, kiểm tra đôn đốc tổ, bộ phận công đoàn hoạt động để rút kinh nghiệm chỉ đạo tốt và kịp thời.
Công đoàn ngành cần quan hệ chặt với Công đoàn ngành trung ương, tiến hành xây dựng các tổ chức công đoàn ngành trong tỉnh. Đến cuối năm 1977 xây dựng 4 công đoàn ngành, có đầy đủ bộ máy, có nội dung hoạt động và hoạt động được. Năm 1978 xây dựng và củng cố hết Công đoàn ngành trong tỉnh.
Đối với Công đoàn huyện, thị, nhiệm vụ trước mắt là vận động phát triển công nhân viên chức vào tổ chức công đoàn. Phải có phương hướng cụ thể cho cơ sở hoạt động. Liên hiệp Công đoàn tỉnh quản lý các Ban Chấp hành công đoàn cơ sở, nhất là cán bộ chuyên trách, thông qua hệ thống tổ chức và kiểm tra mà nắm cơ sở, nắm nhân tố mới. Phấn đấu đến cuối năm 1978, đảm bảo cho Ủy viên Ban Chấp hành công đoàn huyện cơ sở được học các bài cơ bản về công tác cơ sở.
Đối với cơ quan Liên hiệp Công đoàn tỉnh, cần củng cố và kiện toàn tổ chức, bổ sung cán bộ cho các ban để phát huy tác dụng chỉ đạo sâu sát, kịp thời và chủ động, nhất là Ban Tổ chức Liên hiệp công đoàn.
Thành lập Ban Khiếu tố, Ban Kiểm tra và có cán bộ chuyên trách để chuyên lo giải quyết những công tác chuyên môn, thực hiện quyền dân chủ của cán bộ, đoàn viên, đảm bảo nguyên tắc làm việc.
Phấn đấu đến hết năm 1977, Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn mở được 2 lớp học ngắn ngày, mỗi lớp 50 học viên, năm 1978 bồi dưỡng hết Ủy viên Ban Chấp hành Công đoàn chưa có điều kiện đi học.
Có kế hoạch đào tạo cán bộ Công đoàn dài hạn do Tổng Công đoàn mở.
Sau 4 ngày rưỡi làm việc, Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần thứ nhất đã thành công.
Sự thành công của Đại hội đánh dấu cột mốc đầu tiên của sự trưởng thành tổ chức Công đoàn trong thời kỳ đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐẠI HỘI I:
Tinh thần và nội dung của Đại hội lần I được Công đoàn các cấp tiếp nhận thông qua văn kiện Đại hội và sự thông tin kịp thời qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Để nội dung của Nghị quyết Đại hội đi vào cuộc sống, Ban chấp hành các công đoàn cơ sở tiến hành nhiều cuộc họp, cụ thể hóa các chỉ tiêu phấn đấu do Đại hội đề ra, nhằm vượt mức kế hoạch từng năm và nhiệm kỳ Đại hội.
Ngay sau khi Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang kết thúc (16/9/1977), Công đoàn các cấp trong tỉnh tiến hành tổ chức hội nghị triển khai việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh.
Trong tình hình đất nước còn nhiều khó khăn, vết thương chiến tranh chưa hàn gắn hết, tại Tiền Giang, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng vạn người chưa có việc làm, hàng ngàn gia đình bị mất nhà cửa, hàng ngàn người bị thương tật từ trong chiến tranh, hàng vạn liệt sĩ, hàng vạn người bị các căn bệnh do chiến tranh, trong đó có nhiều người bị nhiễm chất độc màu da cam, hàng ngàn gia đình binh lính của chế độ Sài Gòn không còn nguồn thu nhập cần phải có công ăn việc làm, một số tổ chức phản động rắp tâm phá hoại, tung tin bôi nhọ chế độ, gây hoang mang trong nhân dân và một số công nhân viên chức. Năm 1978, một trận lụt lớn nhất của thế kỷ XX đã làm cho Tiền Giang mấy mùa bị mất liên tiếp, trong lúc giá cả ngày một tăng, đời sống của người hưởng lương trở nên rất khó khăn. Trong tình hình ấy, Công đoàn các cấp đã vận dụng nhiều biện pháp tuyên tuyên, giáo dục và rèn luyện công nhân viên chức về nhận thức con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, hăng hái sản xuất, tạo ra nhiều của cải vật chất cho đất nước, xóa dần nghèo nàn lạc hậu.
Từ đầu quý IV năm 1977, tại nhiều ty, xí nghiệp, cơ quan, Ban chấp hành Công đoàn phát động các phong trào “Thi đua lao động, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “Phát huy và áp dụng sáng kiến, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật”. Các xí nghiệp phát động thêm phong trào “Thi đua giành danh hiệu Tổ, Đội lao động xã hội chủ nghĩa”. Trong ngành giáo dục có phong trào “Dạy giỏi, Học giỏi”. Ngành y tế phát động rộng rãi chiến dịch “bảo vệ sức khỏe”, phong trào “5 dứt điểm về công tác y tế” và phong trào rèn luyện đạt danh hiệu “Thầy thuốc như mẹ hiền”. Ngành Thông tin – văn hóa phát động phong trào “Toàn dân xây dựng nền văn hóa mới”. Các phong trào diễn ra rầm rộ, tạo ra không khí thi đua sôi nổi trong tất cả các xí nghiệp, các cơ quan, các ngành, các địa phương.
Qua công tác tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức, phong phú và sinh động, nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về việc xóa bỏ giai cấp bóc lột, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, vai trò làm chủ của công nhân trong việc tham gia quản lý đơn vị và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức và người lao động v.v… của công nhân viên chức được nâng lên rõ rệt. Các phong trào thi đua được Ban Chấp hành các cấp phát động nhanh chóng thành những đợt thi đua trong các xí nghiệp, các cơ quan, đơn vị.
Tại nhà máy chế biến thức ăn gia súc Mỹ Tho, công đoàn đã kết hợp giữa 3 mặt: giáo dục – chăm lo đời sống – thi đua hoàn thành vượt mức kế hoạch, kết hợp hài hòa giữa 3 lợi ích: lợi ích Nhà nước – lợi ích xí nghiệp – lợi ích người công nhân, nên đã đẩy mạnh được sản xuất, ổn định được tư tưởng cán bộ công nhân viên, năng suất cao hơn bình thường 17%, tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển, từ năm 1978 đến cuối năm 1979 đàn heo phát triển thêm 163.315 con.
Xí nghiệp Dược phẩm của tỉnh triển khai nhiều đợt thi đua tăng năng suất lao động, tạo ra những nhân tố mới. Trong điều kiện vật tư, nguyên liệu còn rất khó khăn, việc liên kết với các xí nghiệp khác, tìm nguyên liệu sản xuất dược phẩm, với tinh thần “cải tiến nghiệp vụ và kỹ thuật” để tạo ra nhiều sản phẩm dược để phục vụ nhân dân.
Cuối năm 1977, trong phong trào “5 dứt điểm” của ngành y tế, Phòng Y tế Gò Công với nỗ lực phát động nhân dân thực hiện các mục tiêu dứt điểm về phòng chống dịch bệnh, trồng cây thuốc Nam, xây dựng y tế cơ sở… đã vinh dự nhận cờ Thi đua đầu tiên của Bộ Y tế đối với Tiền Giang, Gò Công trở thành huyện đầu tiên trong khu vực nhận cờ Thi đua.
Xí nghiệp cơ khí 1/5 chế tạo thành công tàu hút bùn, đóng xà lan, làm xe cẩu, thiết kế và lắp ráp trạm bơm nổi cùng hàng chục ngàn công cụ cầm tay phục vụ sản xuất nông nghiệp. Công đoàn của xí nghiệp đã có những chính sách khuyến khích công nhân viên chức cải tiến kỹ thuật, tạo những sản phẩm mới có tính năng tác dụng nổi trội, giúp người sử dụng có năng suất cao hơn. Xí nghiệp có chế độ khen thưởng tương xứng, kích thích sự sáng tạo của cán bộ, công nhân viên của xí nghiệp.
Xí nghiệp quốc doanh đánh cá với sự năng động trong kế hoạch đánh cá, quản lý việc sử dụng tàu thuyền, xăng dầu, và dụng cụ đánh bắt trên biển đã tiết kiệm được nhiên liệu, mang lại hiệu quả cao trong đánh bắt hải sản. Xí nghiệp đã mở những đợt phát động thi đua trong các khâu, tạo sự chuyển biến tích cực trong toàn xí nghiệp, năm 1979, xí nghiệp đã vượt mức kế hoạch 11%, nâng cao được mức sống của cán bộ, công nhân viên chức.
Đội ngũ giáo viên ngành giáo dục tuy gặp nhiều khó khăn trong đời sống do đồng lương khó trang trải cuộc sống gia đình, nhưng đại đa số vẫn kiên trì chịu đựng, bám lớp bám trường, dạy thêm tiết, thêm buổi, đạt được nhiều thành tích, đặc biệt là ngành bổ túc văn hóa, mẫu giáo, phổ thông, góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà. Từ 6.266 giáo viên năm 1977 lên 7.514 giáo viên vào năm 1979 và số học sinh lên 29.993 em.
Cán bộ, công nhân viên chức ngành y tế trong những năm 1977 – 1980 đã chuyển hướng mạnh mẽ trong công tác phòng bệnh, điều trị, kết hợp giữa Đông và Tây y, trồng cây dược liệu, sản xuất bào chế thuốc cung cấp cho nhân dân, có nhiều tiến bộ trong công tác điều trị phục vụ bệnh nhân. Năm 1977 có 139 cơ sở phòng chữa bệnh, đến năm 1980 có 179 cơ sở phòng chữa bệnh, số giường bệnh từ 2.102 tăng lên 2.366 giường, số y bác sĩ từ từ 158 lên 204 vào năm 1980.
Công nhân viên chức ngành thương nghiệp có nhiều sáng kiến trong việc tổ chức mạng lưới thu mua, mở rộng điểm bán hàng. Trong thời gian tương đối ngắn, ngành thương nghiệp đã phát triển nhanh, vượt qua nhiều khó khăn trong việc tổ chức hệ thống mua bán, đã phục vụ kinh doanh ngày càng chặt chẽ, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Công nhân viên ngành thủy sản có nhiều sáng kiến trong việc đánh bắt, thu mua, chế biến, cung cấp phục vụ đời sống nhân dân và xuất khẩu ngày càng tăng.
Công nhân viên ngành xây dựng đạt được những tiến bộ mới trong việc thi công công trình, tập trung dứt điểm sớm một số công trình đưa vào sử dụng có hiệu quả, sản xuất và cung cấp vật liệu xây dựng phục vụ tốt nhu cầu xây dựng của nhân dân.
Công nhân các ngành văn hóa – thông tin – bưu điện có nhiều thành tích đóng góp vào 3 cuộc cách mạng của Đảng, nâng cao dần trình độ hiểu biết về các mặt, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được rộng rãi, cải thiện được một bước đời sống tinh thần cho nhân dân, bảo đảm đường liên lạc, thư tín… từ tỉnh về xã thông suốt liên tục; xây dựng được 15 đơn vị chiếu bóng, phục vụ được 3.213.500 lượt người xem; hệ thống truyền thanh kéo dài 12 km và 365 loa phóng thanh.
Cán bộ, nhân viên các cơ quan hành chánh sự nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiếu cán bộ, nhân viên nghiệp vụ, trình độ, năng lực còn thấp, nhiều đồng chí đã lao vào công tác, có nhiều cải tiến lối làm việc, tác phong công tác, đi sâu về cơ sở, sát việc, hiểu quần chúng, làm việc không kể giờ giấc ngày đêm, tự nguyện làm hết việc, không phải làm hết giờ. Tinh thần trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân được nâng lên.
Anh chị em công nhân lao động ở các xí nghiệp tư doanh được sự hướng dẫn của công đoàn, giác ngộ quyền lợi giai cấp, một mặt vừa lao động sản xuất, làm ra nhiều sản phẩm phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, mặt khác giám sát và đấu tranh với chủ, từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm, phát hiện nhiều vụ làm ăn gian dối, trốn thuế, ăn cắp vật tư của Nhà nước, cung cấp không đảm bảo chất lượng.
Trên mặt trận nông nghiệp, công nhân lao động đã có những đóng góp to lớn, lai tạo được giống lúa mới Long Định I và Long Định II, tìm ra được quy luật một số loại sâu rầy lúa và phương pháp phòng ngừa, trị bịnh cho lúa.
Năm 1978 là năm có cơn lũ lịch sử, hầu hết đồng ruộng Tiền Giang bị ngập lụt, liên tiếp mấy mùa bị thất, nông dân và người ăn lương sống trong sự khó khăn, thiếu thốn. Công nhân lao động dưới sự chỉ đạo của các cấp Ủy, Ban lãnh đạo và Công đoàn đã ra đồng sửa chữa lưu động các dụng cụ cầm tay hoặc cơ giới, phục vụ nông dân sản xuất nông nghiệp. Một số nơi đưa vật tư nông nghiệp về tận xã, ấp, tập đoàn sản xuất để kịp thời vụ, đỡ tốn tiền vận chuyển, ít bị hao hụt, được bà con nông dân hoan nghênh.
Với cách làm đưa vật tư về tận ấp và tập đoàn sản xuất, Trạm Vật tư Nông nghiệp huyện Gò Công đã giảm chi phí từ 5 – 10%. Với phong trào thi đua tăng năng suất, nhà máy chế biến thức ăn gia súc đã tham gia đẩy mạnh chăn nuôi lên thêm 163.315 con. Ngành Giao thông vận tải với quyết tâm tạo những con đường tới vùng sâu vùng xa, từ năm 1978 đến năm 1980 đã tạo được 177 km đường lộ nông thôn, đi vào vùng sâu kinh Nguyễn Tấn Thành, sửa chữa các tuyến đường Cai Lậy, Ba Dừa… tạo điều kiện để nâng khối lượng hàng hóa luân chuyển trong tỉnh từ năm 1977 là 52.153.000 tấn lên 78.279.000 tấn vào năm 1980. Trong đó, vận chuyển phân bón, lúa, hàng hóa, phục vụ thu mua cho bà con nông dân sản xuất tiêu dùng được kịp thời tăng từ 39 đến 51%.
Trong những năm từ 1977 đến năm 1980, cán bộ, công nhân viên trong tỉnh đã đóng góp vào công tác thủy lợi, làm các công trình mương máng, đê, đập dẫn nước tưới tiêu, ngăn mặn phục vụ trên 76.899 ha gieo trồng.
Ngoài việc trực tiếp tham gia lao động trên các công trình thủy lợi, công nhân lao động còn góp phần vào việc đẩy mạnh cơ giới hóa khâu làm đất, giải quyết khó khăn về sức kéo, tăng diện tích canh tác kịp thời vụ, đưa diện tích cày xới mỗi năm đều tăng.
Với vị trí của giai cấp lãnh đạo, đi đầu và nòng cốt trong các phong trào cách mạng, văn hóa và tư tưởng, khoa học và kỹ thuật, quan hệ sản xuất, hưởng ứng chủ trương của Tỉnh ủy làm 1.000.000 tấn phân, cán bộ, công nhân viên lao động đã tuyên truyền vận động có kết quả bà con nông dân làm và sử dụng phân xanh, phân chuồng. Từ tháng 4 năm 1979 đến tháng 4 năm 1980, bà con đã sản xuất 320.000 tấn, nhiều nơi có phong trào khá, như huyện Gò Công, trường Trung học Thủy lợi 3, trường Trung học Nông nghiệp Long Định.
Trong công tác cải tạo nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, cán bộ, công nhân viên chẳng những đã chấp hành tốt, mà còn làm tốt công tác tuyên truyền, vận động gia đình bà con mình chấp hành chủ trương vào tập đoàn sản xuất và hợp tác xã, làm nghĩa vụ lương thực, đóng thuế, bán lúa dư cho Nhà nước, đóng góp tích cực vào việc cải tạo, tổ chức lại sản xuất và phát triển nông nghiệp, xây dựng 75 hợp tác xã, 115 tập đoàn sản xuất, đạt 85% hộ nông dân vào các hình thức làm ăn tập thể, xây dựng được 6 tập đoàn sản xuất lúa giống, với 60 giống mới, diện tích gieo trồng lúa mới chiếm trên 210.000 ha.
Do yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công nhân viên chức tỉnh Tiền Giang được phát triển nhanh về số lượng. Sự hiểu biết về giai cấp công nhân, về cách mạng xã hội chủ nghĩa của anh chị em cũng được nâng lên. Tuy nhiên, sự nhận thức, hiểu biết về các mặt của anh chị em vẫn còn thấp. Trong lúc đất nước đang xảy ra chiến tranh ở hai đầu biên giới do bọn bành trướng Trung quốc tiến hành xâm lược, nhân dân vừa sống trong hòa bình vừa sống trong chiến tranh, bên cạnh cơn lũ lịch sử xảy ra năm 1978 hành hoành các huyện trong tỉnh, nạn sâu rầy phá hoại mùa màng nặng nề, gía cả ngày càng tăng vọt, đời sống công nhân viên chức còn nhiều khó khăn, túng thiếu, cán bộ công nhân viên chức có nhiều suy nghĩ, diễn biến tư tưởng, lo lắng cho cuộc sống của mình, nhiều anh chị em thiếu an tâm để tập trung công tác, bị chi phối vào việc mua bán, tăng gia chăn nuôi riêng, xảy ra các hiện tượng xoay xở, móc ngoặc, ăn cắp, tham ô của Nhà nước. Một số công nhân sau giải phóng sợ chiến tranh, sợ gian khổ, phải đi nghĩa vụ quân sự nên có một số trốn đi nước ngoài, nhiều người xin nghỉ việc, bỏ việc ngày càng tăng.
Trong hoàn cảnh nhiều khó khăn, giá cả leo thang, đời sống của cán bộ, công nhân viên chức chưa được đảm bảo, thiên tai hành hoành, đất nước vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, tư tưởng của một bộ phận công nhân viên chức và người lao động bị dao động, công tác giáo dục tư tưởng trở nên đặc biệt quan trọng.
Công đoàn các cấp trong tỉnh dưới sự lãnh đạo của Liên đoàn Lao động tỉnh đã tổ chức cho công nhân lao động sinh hoạt học tập liên tục các Nghị quyết 2,3 và 4 của Ban Chấp hành Tổng Công đoàn về “tình hình và nhiệm vụ mới”, Nghị quyết 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết của Đại hội Tỉnh Đảng bộ, Nghị định 182/CP của Chính phủ, các bài chính trị phổ thông v.v… Đặc biệt, từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 5 năm 1978, Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV được diễn ra tại Hà Nội, . Đại hội khẳng định: “ Sau ngày cả nước hoàn toàn giải phóng, Công đoàn đã nhanh chóng tập hợp, đoàn kết công nhân, lao động cả nước hăng hái đi đầu trong việc thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng về khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, hàn gắn vết thương chiến tranh, đấu tranh xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản, cải tạo công, thương nghiệp tư bàn tư doanh, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân”. Sự thành công của Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV đã đem đến một luồng sinh khí mới cho giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam, trong đó có cán bộ, công nhân viên chức và người lao động Tiền Giang.
Trong thời gian này, Công đoàn các cấp còn tổ chức các hình thức hoạt động khác, như: đọc báo hàng ngày, sinh hoạt văn nghệ, thể thao, xem phim… thu hút được đông đảo công nhân viên chức tham gia và trở thành một yêu cầu trong cuộc sống của anh chị em, trình độ hiểu biết về thẩm mỹ, nghệ thuật cũng được nâng lên, rèn luyện cho mọi người ý thức tập thể, tính tổ chức, kỷ luật, có sức khỏe sản xuất, bảo vệ tổ quốc, xây dựng con người mới – con người xã hội chủ nghĩa toàn diện.
Qua việc tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức sinh động và liên tục, nhận thức về chính trị của công nhân viên chức được củng cố và nâng lên một bước. Anh chị em nhận thức được đúng tình hình và nhiệm vụ mới, âm mưu phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khả năng của ta đánh thắng chúng nên không sợ. Có gần 100 cơ sở gởi thư quyết tâm lên Tỉnh ủy và Liên hiệp Công đoàn bày tỏ tinh thần “Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần”. Anh chị em thấy được khó khăn của đất nước và nguyên nhân của nó, chấp nhận chịu đựng, giải quyết từng bước bằng con đường lao động sản xuất, chăn nuôi để cải thiện đời sống, giải quyết khó khăn cho bản thân và gia đình. Đại đa số công nhân ổ định được tư tưởng, bám xí nghiệp, cơ quan, ngày đêm lao vào sản xuất, công tác, thể hiện qua các đợt thi đua, hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và lệnh tổng động viên của Nhà nước.
Mặc dù trong 3 năm (1977 – 1980) có nhiều sự kiện diễn ra bất lợi, gây nhiều khó khăn lớn, nhưng công nhân lao động Tiền Giang vẫn đứng vững trên vị trí chiến đấu của mình và đã chiến thắng. Nói lên lòng tin tuyệt đối của công nhân lao động đối với Đảng và yêu mến chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh công tác vận động công nhân lao động đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, công tác chăm lo đời sống, bảo vệ sức khỏe công nhân viên chức và người lao động được tổ chức Công đoàn đặc biệt quan tâm.
Trong những năm (1977 – 1980) Công đoàn các cấp đã rất quan tâm đến đời sống và điều kiện làm việc của công nhân lao động, coi đó là một yếu tố của phong trào thi đua. Công đoàn đã tham gia với chính quyền, chuyên môn, tổ chức thực hiện được nhiều chế độ, chính sách của Nhà nước đã ban hành, như: tiền lương, tiền thưởng, bồi dưỡng độc hại, làm thêm giờ, định lượng tiêu chuẩn lương thực, hàng hóa, trợ cấp khó khăn, bảo hiểm xã hội, chăm lo bữa ăn,điều kiện làm việc… để đảm bảo sức khỏe cho công nhân lao động, sản xuất. Năm 1980, đã giải quyết lương về cơ bản không dưới 36 đồng.
Được Ủy ban Nhân dân tỉnh chỉ đạo các ngành giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân viên chức chăn nuôi heo, cung cấp thức ăn gia súc, cho vay vốn, giống, định giá cả thu mua, khuyến khích công nhân chăn nuôi, có thể nói: trong những năm 1977 – 1980 công nhân viên chức trong các cơ quan xí nghiệp đều “người người chăn nuôi, nhà nhà chăn nuôi, mọi người đều chăn nuôi”, giải quyết những khó khăn về đời sống cho công nhân viên chức.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng, Nhà nước và Tổng Công đoàn về đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, Công đoàn các cấp phát động trong công nhân viên chức và người lao động không để một tấc đất bỏ trống, tận dụng trồng cây lương thực, trồng rau, đào ao thả cá… Trong thời gian này, phong trào diễn ra đều khắp. Nhiều cơ sở đã trồng rau thừa ăn, sản xuất thực phẩm khá nhiều, bữa ăn tập thể được cải thiện, nhiều đơn vị còn thừa để phân phối cho gia đình anh chị em. Năm 1979, các cơ quan, xí nghiệp đã trồng được 40.000 m2 rau xanh, thu hoạch được 185.500 kg rau; cấy 513 ha lúa thu hoạch được 1.060 tấn, bán cho Nhà nước 755 tấn; nuôi 5.446 con heo, bán cho Nhà nước 400 tấn heo hơi.
Trong đợt sản xuất tự túc 3 tháng do tỉnh phát động năm 1980, có nhiều cơ sở thực hiện được, như: văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh, Công ty Liên hiệp xuất khẩu, Văn phòng Tỉnh ủy, ty Giao thông – vận tải… Số bếp ăn tập thể cũng được nâng lên: năm 1977 có 112 bếp, năm 1979 có 200 bếp, trong đó co 143 bếp có tài chính công khai hàng ngày và có ban kiểm tra nhà ăn.
Trong lúc đời sống công nhân viên chức còn nhiều khó khăn, nhất là trong lúc tỉnh bị cơn lũ lịch sử và dịch rầy nâu hành hoành, cán bộ, công nhân lao động đã thể hiện tinh thần đoàn kết “công – nông”, “lá lành đùm lá rách”, “nhường cơm xẻ áo”, giúp công giúp của, sửa chữa lại nhà ở của đồng bào, đồng chí mình bị thiệt hại và giúp đồng bào 6 tỉnh biên giới phía bắc 11.285 kg gạo, 41.774 đồng và đền ơn đáp nghĩa gia đình thương binh liệt sĩ 19.833 đồng.
Thực hiện chế độ chính sách đối với nữ công nhân viên chức, Công đoàn đã phối hợp với các ngành mở rộng, thực hiện các chế độ nghỉ đẻ, bồi dưỡng, khám phụ khoa, vận động sinh đẻ có kế hoạch, tổ chức nhà gởi trẻ, giảm bớt khó khăn cho anh chị em có thêm điều kiện học hành, công tác, giữ gìn sức khỏe. Năm 1978 trong toàn tỉnh có 27 cơ sở đạt chỉ tiêu vòng tránh thai. Năm 1979 có thêm 44 cơ sở đặt vòng tránh thai, vượt chỉ tiêu kế hoạch 4 cơ sở.
Việc khám chữa phụ khoa cho nữ công nhân viên chức được tổ chức thường xuyên. Năm 1978 khám 3.479 chị em có nhu cầu, chữa trị cho 1.116 chị em bị bệnh. Năm 1979 tổ chức khám 3.236 chị em, 913 chị em được chữa trị.
Để tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân viên chức có thời gian và yên tâm làm việc tại cơ quan, xí nghiệp, Công đoàn các cấp đã cùng với chính quyền và các ngành liên quan lập các nhà trẻ và trường mẫu giáo. Năm 1978, toàn tỉnh có 26 nhà trẻ, chăm giữ 432 cháu. Năm 1979, số nhà trẻ lên 49, số trẻ được gởi lên 850 cháu.
Đối với trường mẫu giáo, năm 1978 toàn tỉnh có 441 lớp, thu nhận được 14.978 cháu. Năm 1979 tăng lên 468 lớp, với đội ngũ giáo viên 562 cô, thu nhận 15. 111 cháu.
Công đoàn và chính quyền có nhiều cố gắng tổ chức cho cán bộ, công nhân, viên chức đi nghỉ mát, bồi dưỡng sức khỏe, chi phí vào sự nghiệp phúc lợi tập thể. Bồi dưỡng tại chỗ trong 3 năm cho 12.132 người, đi nghỉ dưỡng sức ở các nhà nghỉ 856 người, đi nghỉ nước ngoài 10 người.
Quyền làm chủ tập thể của công nhân, viên chức trong lao động và đời sống bước đầu được phát huy, được tổ chức công đoàn bảo vệ. Việc kiểm tra, giám sát, phát hiện khiếu nại những người làm sai chế độ, chính sách, phân phối không công bằng,gian lận, bớt xén của công nhân, viên chức được mở rộng, có nhiều cơ quan, xí nghiệp, trường học làm tốt công tác đời sống như: công ty Nghệ phẩm, trường Trung học Nông nghiệp Long Định, trường Thủy Lợi 3, xí nghiệp sửa chữa xe hơi 30/4, cơ quan Ủy ban Nhân dân tỉnh, công ty Liên hiệp Xuất Khẩu, xí nghiệp cơ khí 1/5, v.v…
Phong trào tự tổ chức cải thiện đời sống trong công nhân viên chức ngày càng phát triển mạnh, có tính tự giác, đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực, nhờ đó cải thiện được bữa ăn, giải quyết được một phần khó khăn, túng thiếu của gia đình công nhân viên chức.
Với sự nỗ lực chăm lo đời sống và bảo vệ sức khỏe cho cán bộ, công nhân viên chức trong 3 năm (1977 – 1980), Công đoàn đã đạt được thành tích về chăm lo đời sống cán bộ, công nhân viên chức trong điều kiện nhiều khó khăn là rất đáng trân trọng, khẳng định một bước tiến mới trong hoạt động công đoàn ở nhiệm kỳ đầu tiên.
Công tác xây dựng, củng cố tổ chức luôn được Ban Chấp hành đặc biệt quan tâm, xem đây là điều kiện tiên quyết để phát triển tổ chức Công đoàn, tạo ra các phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do yêu cầu phát triển kinh tế và xây dựng tỉnh nhà có cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, trong 5 năm sau ngày giải phóng, nhiều đơn vị kinh tế, sản xuất, trường học… được hình thành, các nhà máy như Tôm đông lạnh, cơ khí Ấp Bắc, cơ khí 1/5, Rau Quả đông lạnh… ra đời và phát triển nhanh, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp phát triển, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động phát triển nhanh. Từ con số chưa đầy 1.000 người (sau ngày giải phóng, tháng 5 năm 1975), đến năm 1979 đã có 26.258 công nhân viên chức, có 31.095 lao động tiểu thủ công nghiệp, trong đó, lực lượng nữ chiếm 57%.
Song song với đà phát triển chung, về mặt tổ chức sản xuất, bộ máy quản lý kinh tế, tổ chức công đoàn được xây dựng kịp thời để giáo dục bồi dưỡng đội ngũ công nhân viên chức về mọi mặt, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Đến năm 1980, hầu hết cơ quan, xí nghiệp, trường học, nông trường đều có tổ chức công đoàn, gồm 17.085 đoàn viên (đạt 65% trong tổng số công nhân viên).
Về tổ chức, theo Điều lệ sửa đổi tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ III vào tháng 2 năm 1974, hệ thống tổ chức Công đoàn có các cấp:
– Tổng Công đoàn.
- Các công đoàn ngành Trung ương.
- Các Liên hiệp Công đoàn địa phương.
- Các Công đoàn ngành địa phương.
- Các Công đoàn cơ sở.
- Công đoàn bộ phận.
- Tổ Công đoàn
Đối với việc thành lập công đoàn ngành địa phương, điều lệ sửa đổi quy định: “Việc thành lập công đoàn ngành địa phương phải căn cứ vào sự phát triển của từng ngành sản xuất, kinh doanh và sự nghiệp đã thành hệ thống ngành nghề. Nhưng không nhất thiết ở cấp trung ương có công đoàn ngành nào thì ở địa phương có công đoàn ngành ấy” [5]
Liên hiệp Công đoàn tỉnh vào năm 1980 có 7 công đoàn huyện – thành phố, 7 công đoàn ngành, 61 công đoàn cơ sở trực thuộc. Nếu tính chung cơ sở trực thuộc ngành, toàn tỉnh có 368 cơ sở. Công đoàn bộ phận có 338 và 1.760 tổ công đoàn.
Với một đội ngũ cán bộ đông đảo không chuyên trách gồm 5.918 người và 87 cán bộ, nhân viên chuyên trách. Qua một thời gian hoạt động, không những số lượng cán bộ công đoàn tăng đáng kể, mà chất lượng cũng được nâng lên. Trình độ hiểu biết về công đoàn và phương pháp hoạt động ngày càng rõ, đi dần đúng vào quỹ đạo, chức năng của công đoàn. Nhiều cán bộ tận tụy phục vụ quần chúng, nhiệt tình công tác công đoàn.
Cán bộ, công nhân, đoàn viên công đoàn luôn gắn bó với tổ chức, thấy được sự cần thiết phải có tổ chức công đoàn, tự nguyện xin gia nhập tổ chức ngày càng nhiều. Riêng ngành giáo dục, 1 tháng có trên 1.000 lá đơn xin vào công đoàn. Uy tín công đoàn được đề cao, đang phát huy vai trò và tác dụng sợi dây chuyền nối giữa Đảng với công nhân laoo động, góp phần tích cực xây dựng Đảng, làm chỗ dựa vững chắc của chính quyền, trường học về quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, trường học làm chủ tập thể, trường học về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân.
X X
X
3 năm (1977 – 1980) là thời gian tỉnh Tiền Giang và tổ chức Công đoàn của tỉnh gặp nhiều khó khăn gay gắt. Nhưng, được các Nghị quyết của Đảng soi sáng, sự chỉ đạo kịp thời của Tổng Công đoàn, tổ chức Công đoàn Tiền Giang đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, tổ chức công nhân viên chức đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng đất nước và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng tổ chức Công đoàn đạt nhiều thành tích quan trọng, góp phần cùng quân và dân trong tỉnh hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đến năm 1980 do Đại hội Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ nhất đề ra.
III. ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG LẦN THỨ II VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 1980 – 1983:
BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Kết thúc nhiệm kỳ I, sau 3 năm tổ chức và hoạt động, phong trào công nhân viên chức, lao động tỉnh Tiền Giang bước đầu đi vào nề nếp. Công đoàn các cấp rút ra được nhiều kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện các phong trào thi đua, tạo ra được những sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm nâng cao đời sống của nhân dân.
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thay đổi to lớn. Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa có những biểu hiện về khủng hoảng kinh tế và chính trị. Trong đó, tình hình Ba Lan diễn biến rất phức tạp. Tuy nhiên, Liên Xô vẫn là thành trì của chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
Cay cú về thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc dùng mọi cách chống phá, ngăn cản công cuộc khôi phục của đất nước ta, thực hiện chính sách bao vây cấm vận kinh tế và cô lập Việt Nam trên trường quốc tế. Các thế lực thù địch cùng phù họa với Mỹ ngăn cản sự nghiệp xây dựng lại đất nước và tiến lên của cách mạng Việt Nam. Bè lũ đế quốc giúp đỡ bọn phản động người Việt trong và ngoài nước “phục quốc”, thực hiện kế hoạch hậu chiến.
Quân và dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh ở biên giới Tây – Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam.
Sau 5 năm đất nước thống nhất, ta đã thiết lập vững chắc chế độ nhân dân làm chủ trong cả nước. Ở miền Nam, đã tiến hành cải tạo nông nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Mặt khác, đất nước ta trong những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 đang trong cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Lạm phát tăng cao trên 200%.
Trong hoàn cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, Đại hội lần thứ IV Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 5 năm 1978 tại thủ đô Hà Nội đã đề ra nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhấn mạnh: “Công đoàn phải giáo dục công nhân, viên chức hết sức chăm lo xây dựng Đảng, bộ tham mưu của giai cấp công nhân, đi đầu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng… Công đoàn phải nâng cao không ngừng nghĩa vụ làm chủ tập thể, vai trò và trách nhiệm làm chủ tập thể của công nhân, viên chức đối với tư liệu sản xuất, đối với năng suất lao động, đối với tài sản xã hội chủ nghĩa, lợi ích tập thể, trật tự công cộng, thúc đẩy ba cuộc cách mạng phát triển”. Đối với Liên hiệp Công đoàn tỉnh, báo cáo chỉ rõ: “Phải tích cực tham gia với chính quyền đồng cấp trong việc xây dựng và quản lý kinh tế địa phương theo sự phân cấp của Nhà nước, đặc biệt là xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương nhằm đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng công, nông nghiệp thành một cơ cấu kinh tế thống nhất trong phạm vi địa phương”[6]
Tại tỉnh Tiền Giang, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp được đẩy mạnh. Phần lớn nông dân tham gia các tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất. Sau cơn lũ lịch sử xảy ra trên diện rộng, nhiều chỉ tiêu kế hoạch vẫn đạt được, tuy nhiên, do giá cả leo thang, đời sống của người lao động, đặc biệt của người hưởng lương gặp rất nhiều khó khăn.
Nằm trong hoàn cảnh chung của tỉnh Tiền Giang và của đất nước, tổ chức Công đoàn Tiền Giang đã nỗ lực khắc phục những khó khăn do đặc điểm của địa phương thuần nông, sản xuất còn nhỏ lẻ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp gần như còn sơ khai, để phát động các phong trào cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, cải tạo nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp… công nhân lao động thực sự là chỗ dựa vững chắc của chính quyền, trở thành lực lượng trực tiếp đấu tranh xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới, nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ các tệ nạn xã hội, mọi tàn tích và ảnh hưởng của nền văn hóa nô dịch và lối sống đồi trụy của chủ nghĩa thực dân mới, xây dựng cuộc sống mới lành mạnh.
ĐẠI HỘI II:
Trong niềm hân hoan về những thành tựu đã đạt được của công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh, kết thúc thắng lợi nhiệm kỳ Công đoàn đầu tiên, Liên hiệp Công đoàn Tiền Giang tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II nhiệm kỳ 1980 – 1983, diễn ra từ ngày 30/9/1980 đến ngày 3/10/ 1980 tại Hội trường Ấp Bắc.
Đến dự Đại hội là những công đoàn viên ưu tú, thay mặt cho trên hơn 18.350 đoàn viên công đoàn và 27.801 công nhân, viên chức trong tỉnh. Đại hội vinh dự đón tiếp đồng chí Lê Văn Phẩm, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Công Bình, Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, các đồng chí thay mặt cho Tổng Công đoàn Việt Nam, các đồng chí thay mặt cho các Công đoàn tỉnh bạn và các đồng chí thay mặt cho Mặt trận Tổ quốc tỉnh, các đồng chí là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy và các đồng chí là Ủy viên Ban chấp hành Tỉnh ủy.
Đại hội đã kiểm điểm tình hình phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn trong thời gian qua, và quán triệt vận dụng Nghị quyết Đại hội Tổng Công đoàn, Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ, đề ra phương hướng nhiệm vụ của nhiệm kỳ 1980 – 1983. Đại hội được nghe phát biểu chỉ đạo của đại diện Tổng công đoàn Việt Nam và của Bí thư Tỉnh ủy Tiền Giang, được nghe nhiều tham luận của các Công đoàn cơ sở, phản ánh tình hình hoạt động tại cơ sở và những kiến nghị về tổ chức phát động phong trào công nhân, kiến nghị về việc thực thi quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của công nhân – viên chức… Đại hội đã bầu Ban chấp hành nhiệm kỳ 1980 – 1983 gồm 31 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 9 đồng chí.
Đồng chí Nguyễn Kha được bầu vào chức vụ Thư ký, đồng chí Nguyễn Thị Cúc được bầu vào chức vụ Phó thư ký Liên hiệp Công đoàn Tiền Giang [7].
Báo cáo của Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã đánh giá sự chuyển biến rõ rệt về tư tưởng và hành động của công nhân viên chức trong tỉnh như sau: “Trong tình hình chung tuy có nhiều khó khăn nổi lên về sản xuất và đời sống diễn biến nhiều tư tưởng công nhân viên chức, nhiều đơn vị đã thể hiện được tinh thần cách mạng tiến công, chủ động tích cực tìm biện pháp giải quyết, biết gắn chặt giữa ba mặt giáo dục với việc chăm lo đời sống và thi đua sản xuất hoàn thành kế hoạch và biết kết hợp giữa ba lợi ích: nhà nước, xí nghiệp, người công nhân đều có lợi, có tác động kết quả rõ rệt trong việc đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện kế hoạch, ổn định được tư tưởng công nhân viên chức, khắc phục, hạn chế được nhiều tiêu cực, xuất hiện nhiều đơn vị tiêu biểu, là những nhân tố mới trong phong rào của tỉnh nhà”.
Trên cơ sở đánh giá đúng về phong trào công nhân viên chức và hoạt động Công đoàn nhiệm kỳ 1977 – 1980, xuất phát từ nhiệm vụ của Tỉnh Đảng bộ, Nghị quyết Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ IV, Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ II (1980 – 1983) với những nội dung chính như sau:
Về nhiệm vụ chung của Công đoàn Tiền Giang là: “Tập trung vận động, tổ chức phong trào trong công nhân viên chức phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước 5 năm và hàng năm, phong trào phục vụ và phát triển sản xuất nông nghiệp, chăm lo cải thiện đời sống công nhân viên chức, bảo vệ tốt cơ quan – xí nghiệp, sẵn sàng chiến đấu; đấu tranh khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh, vươn lên thực hiện vai trò và chức năng của mình, làm chỗ dựa vững chắc cho các cấp ủy Đảng và chính quyền trong tỉnh”.
Để thực hiện nhiệm vụ chung đó, Nghị quyết Đại hội đề ra các nhiệm vụ công tác cụ thể, đó là:
– Thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước: Đây là nhiệm vụ hàng đầu của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn. Mục tiêu thi đua là năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều. Nội dung thi đua là hợp lý hóa sản xuất, hợp lý hóa tổ chức lao động, cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp thì nội dung cải tiến tổ chức, cải tiến nghiệp vụ, cải tiến lối làm việc.
– Công đoàn phải phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của công nhân, viên chức nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng, sử dụng tốt các thiết bị, vật tư, lao động, xây dựng và thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh và các chỉ tiêu sản xuất ngoài kế hoạch, làm cho sản xuất bung ra đúng hướng, chấm dứt tình trạng lơi lỏng kỷ luật lao động, vô trách nhiệm và kinh doanh thua lỗ.
Công đoàn phải tích cực tham gia quản lý, cải tiến những khâu bất hợp lý đang cản trở sản xuất; phát hiện và nhân rộng các điển hình về làm chủ tập thể và kết hợp 3 lợi ích (lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích của người lao động).
Về một số chỉ tiêu và biện pháp chủ yếu về tổ chức phong trào thi đua, Nghị quyết nêu:
– “Thực hiện có nền nếp thường xuyên việc mở hội nghị công nhân viên chức tham gia xây dựng kế hoạch Nhà nước, ký kết hợp đồng tập thể hoặc cam kết trách nhiệm giữa thủ trưởng và Ban chấp hành công đoàn cơ sở, bầu Ban thường trực Hội nghị công nhân, viên chức và Ban thanh tra công nhân, quyết định việc sử dụng quỹ phúc lợi xí nghiệp như Nghị định 182/CP quy định. Phấn đấu đến năm 1982, 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh làm đượ việc này. Nơi không có nhiệm vụ và kế hoạch sản xuất ổ định thì mở Hội nghị công nhân, viên chức bất thường để bàn biện pháp khắc phục khó khăn, tạo việc làm và mặt hàng mới”.
– “Đẩy mạnh phong trào thi đua phát huy và áp dụng sáng kiến, thực hành tiết kiệm. Mỗi tổ sản xuất, tổ công tác hàng năm có ít nhất 1 sáng kiến. Mỗi cơ sở lập 1 tổ hỗ trợ sáng kiến”.
– “Xây dựng phong trào phấn đấu trở thành tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa. Năm 1981 tất cả các ngành, các cơ sở trọng điểm, mỗi nơi ít nhất có 1 tổ đăng ký phấn đấu. Năm 1982 tăng gấp đôi so với năm 1981. Phong trào này bao gồm cả việc phấn đấu đạt danh hiệu lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, tổ đội lao động tiên tiến”
Về chăm lo đời sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân, viên chức, Nghi quyết nêu: “Đẩy mạnh phong trào sản xuất lương thực, thực phẩm tự cải thiện và chăm lo bữa ăn của công nhân, viên chức”; “Tham gia thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chế độ lao động và phân phối hàng hóa: Chú trọng việc nâng bậc lương hàng năm, các hình thức trả lương tiên tiến và kết hợp được 3 lợi ích, như lương tính theo sản phẩm, lương khoán và các loại tiền thưởng”; “Các cấp công đoàn tham gia với chính quyền xây dựng và sắp xếp nhà ở cho công nhân, viên chức, đảm bảo đủ chỗ ở, không bị dột nát, đủ giường nằm và trang bị những đồ dùng cho sinh hoạt cần thiết”; “Kết hợp chặt chẽ chức năng giáo dục, vận động quần chúng và chức năng quản lý do Nhà nước giao cho để nâng cao tính quần chúng và tính pháp lý trong công tác bảo hiểm xã hội”.
Về công tác chính trị và tư tưởng, đấu tranh chống tiêu cực, đẩy mạnh sinh hoạt văn hóa – văn nghệ – thể dục thể thao trong công nhân, viên chức, Nghị quyết nêu: “Công đoàn phải đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục về ý thức giai cấp công nhân, bồi dưỡng năng lực làm chủ và nêu cao trách nhiệm làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng và rèn luyện người công nhân, viên chức mới xã hội chủ nghĩa”; “Phải kịp thời vạch trần và đập tan những điệu tâm lý chiến và phản động của địch”.
Trong đấu tranh chống tiêu cực, “Công đoàn phải phát động thành phong trào công nhân, viên chức mạnh mẽ trong đấu tranh chống tiêu cực. Công nhân, viên chức phải đi đầu trong cuộc đấu tranh này, bất cứ hiện tượng tiêu cực nào cũng phải phê phán, đấu tranh khắc phục, dù người làm sai ở địa vị nào. Công đoàn phải sử dụng chức năng, quyền hạn của mình mà luật pháp đã quy định để bảo vệ tốt những người đấu tranh chống tiêu cực, đồng thời đề xuất với Đảng và các cơ quan Nhà nước triển khai đồng bộ, kiên quyết, xử lý nghiêm minh những người sai phạm, những kẻ trù dập công nhân, viên chức đấu tranh chống tiêu cực.”
Đối với hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, Nghị quyết nêu: “Các công đoàn cơ sở có kế hoạch huy động 100% số người trong diện đi học bổ túc văn hóa. Liên hiệp Công đoàn phối hợp với ngành giáo dục có chủ trương, biện pháp và tạo các điều kiện vật chất, tài chính cần thiie61t đối với các lớp học bổ túc văn hóa, đảm bảo đến năm 1981 thanh toán cấp I tiến lên phổ cập cấp II.”; “Phát triển phong trào văn nghệ quần chúng với nội dung lành mạnh, có tác dụng giáo dục, giải trí và hình thức dân tộc, chống lai căng; phát triển các nhóm ca khúc xung kích của công nhân trẻ có lãnh đạo chặt chẽ; phối hợp với các ngành mở lớp bồi dưỡng hạt nhân văn nghệ theo quy định của Tổng Công đoàn”; “Đẩy mạnh việc rèn luyện thân thể trong công nhân, viên chức. Chú trọng phong trào thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ làm việc, phát triển các mô thể thao phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế, như bơi lội, bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, bắn súng, chạy…”
Về xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, Nghị quyết nêu:
Đối với việc xây dựng và củng cố tổ chức Công đoàn, là “Làm tốt công tác đoàn viên, đảm bảo hầu hết công nhân, viên chức đủ điều kiện đều ở trong tổ chức công đoàn. Phấn đấu đến hết năm 1981 chiếm 80 – 82% tổng số công nhân, viên chức’; “Các công đoàn cơ sở phải được củng cố, kiện toàn để thực hiện được chức năng nhiệm vụ công tác. Chú trọng củng cố tổ công đoàn. Đưa việc phân loại đoàn viên, phân loại tổ công đoàn, công đoàn bộ phận và công đoàn cơ sở thành nếp thường xuyên theo quy định của Tổng Công đoàn”; “Củng cố, kiện toàn các công đoàn huyện, thành phố và ngành hiện có và nghiên cứu thành lập thêm công đoàn ngành cần thiết”.
Đối với công tác đào tạo cán bộ công đoàn, “Phải có quy hoạch cán bộ, đảm bảo sự kế thừa và chủ động trong khâu cán bộ; đẩy mạnh công tác huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mở lớp huấn luyện chương trình sơ cấp cho cán bộ, từ thư ký, phó thư ký công đoàn cơ sở trở lên và đảm bảo các chỉ tiêu chiêu sinh hàng năm của Tổng Công đoàn. Đảm bảo từ năm 1981 trở đi, tất cả cán bộ mới được bầu đều được qua huấn luyện bồi dưỡng. Chú trọng việc kèm cặp bồi dưỡng cán bộ tại chỗ”.
Về cải tiến phương pháp công tác công đoàn: “Phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao trách nhiệm từng cấp, từng người, việc phân công nhiệm vụ phải rõ ràng, tránh chồng chéo và tránh không có tổ chức có người chịu trách nhiệm. Làm việc phải có chương trình, kế hoạch cụ thể, có sơ kết, tổng kết và rút kinh nghiệm. Phải đảm bảo chế độ sinh hoạt hội họp và báo cáo, thỉnh thị đúng quy định”.
Một số chỉ tiêu được Đại hội thông qua, là:
– Đến năm 1983 có 100% cơ sở sản xuất kinh doanh mở Hội nghị công nhân viên chức và ký kết hợp đồng tập thể.
– Phấn đấu hàng năm mỗi tổ sản xuất có 1 sáng kiến.
– Vận động từ 10 đến 15 tổ đăng ký phấn đấu tổ lao dộng xã hội chủ nghĩa.
– Từ năm 1981, tất cả các ngành, các cơ sở trọng điểm, mỗi nơi có ít nhất 1 tổ đăng ký phấn đấu đạt 1 trong các danh hiệu: lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, tổ đội lao động tiên tiến.
– Mỗi cơ sở phải tổ chức được 1 Ban khoa học kỹ thuật hoặc hỗ trợ sáng kiến.
– Từ cuối năm 1981 thực hiện quyền chủ động sản xuất – kinh doanh, trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất – kinh doanh.
NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI II ĐI VÀO CUỘC SỐNG:
Sau Đại hội Đại biểu Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần thứ II, một phong trào thi đua lao động sản xuất nhằm biến Nghị quyết Đại hội thành hiện thực đã được đông đảo cán bộ, công nhân viên chức và người lao động hưởng ứng.
Trong điều kiện đất nước đi vào cuộc khủng hoảng kinh tế, lạm phát ngày một cao, đời sống cán bộ, nhân viên ngày càng khó khăn, nhưng với tinh thần cách mạng tiến công, đặt trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, gắn bó với chế độ xã hội chủ nghĩa, không chịu lùi bước trước khó khăn, cán bộ, công nhân, viên chức tìm cách tháo gỡ khó khăn, tìm phương thức sản xuất kinh doanh mới, tạo ra nguồn nguyên liệu, mặt hàng mới, làm ra nhiều sản phẩm, phục vụ sản xuất, đời sống và xuất khẩu, đưa giá trị tổng sản lượng ngày càng tăng lên.
Nhiều cơ quan, xí nghiệp mở Hội nghị quán triệt Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, Nghị quyết của Liên hiệp Công đoàn tỉnh lần thứ II, định ra mục tiêu phấn đấu hàng năm, hàng quý, hạ quyết tâm thi đua hoàn thành vượt mức kế hoạch, tạo ra các phong trào thi đua giữa các tổ, giữa các xí nghiệp.
Để đẩy mạnh hoạt động công đoàn và phong trào cách mạng trong toàn thể cán bộ, công nhân viên chức và người lao động, Liên hiệp Công đoàn không ngừng giáo dục giác ngộ về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về quan điểm lập trường giai cấp, ý thức về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về phát huy tinh thần làm chủ tập thể xã họi chủ nghĩa, về nội dung 3 cuộc cách mạng v.v… Trên cơ sở đó, công đoàn các cấp tổ chức động viên phong trào hành động cách mạng trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học – kỹ thuật và an ninh quốc phòng. Bằng việc tiến hành nhiều đợt học tập, Công đoàn đã giáo dục công nhân viên chức về tình hình, nhiệm vụ của đất nước, các chủ trương, chính sách của Đảng , Nhà nước làm cho công nhân viên chức nhận thức đúng về những khó khăn tạm thời và triển vọng phát triển của đất nước. Qua học tập, công nhân viên chức có ý thức cảnh giác, đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, chống những kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, tích cực đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, củng cố niềm tin, tăng cường sự đoàn kết nhất trí với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Bằng nhiều nội dung và hình thức, nhiều biện pháp giáo dục, phát động, công đoàn các cấp tập trung tuyên truyền, giáo dục xây dựng người công nhân mới xã hội chủ nghĩa, mang đủ những đặc trưng của con người mới xã hội chủ nghĩa trong tất cả các đối tượng từ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học đến công nhân trực tiếp sản xuất đều được tham gia học tập. Ngoài ra, cán bộ, công đoàn viên công đoàn còn được học tập những bài chính trị cơ bản do Tổng Công đoàn biên soạn, như “Tình hình nhiệm vụ mới”, “Vai trò giai cấp công nhân”, “Điều lệ Công đoàn”, “Thái độ lao động mới”… nhằm nâng cao tính giai cấp công nhân trong nhận thức và tổ chức Công đoàn.
Để làm tốt cuộc vận động, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Liên hiệp Công đoàn tỉnh, các cấp công đoàn triển khai tổ chức cho công đoàn viên học tập văn hóa, kỹ thuật, ngoại ngữ, kèm cặp tay nghề. Đặc biệt, trong tình hình có nhiều công nhân, viên chức do điều kiện chiến tranh chưa thể theo học đến hết cấp 3, các cấp công đoàn tổ chức hoặc tạo mọi điều kiện để công nhân viên chức theo học các lớp bổ túc văn hóa, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn, làm cơ sở cho cán bộ đi vào nắm vững khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ.
Với các biện pháp nói trên, phong trào công nhân viên chức không những phát triển bề rộng mà còn phát triển cả bề sâu, tác động tích cực vào đời sống xã hội.
Từ sau Đại hội Công đoàn tỉnh, ngày càng xuất hiện nhiều nhân tố mới, điển hình về vận dụng đúng đắn và sáng tạo phương thức sản xuất kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tháo gỡ được những khó khăn, ách tắc, hoàn thành được nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch, đưa sản xuất tiến lên, từ chỗ một số xí nghiệp làm ăn thua lỗ, tiến tới có lãi, nộp tích lũy cho Nhà nước, tránh được tình trạng Nhà nước phải bù lỗ.
Trong dịp Đại hội mừng công của tỉnh lần thứ nhất (năm 1982), có 492 đồng chí được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, tiêu biểu cho phong trào quản lý giỏi, sáng kiến, tiết kiệm, chống tiêu cực; phong trào hai giỏi, phong trào người thầy thuốc nhân dân, phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ đất nước, phong trào làm nông nghiệp giỏi, v.v… Có thể kể đến những điển hình như: Đồng chí Lê Phùng, giám đốc nhà máy cơ khí 1 tháng 5; Nguyễn Thị Thu, phó chủ nhiệm công ty thương nghiệp Tổng hợp tỉnh; Trần Kim Xuyến, bác sĩ khoa Nhi; dược sĩ Lâm Danh Mộc, xí nghiệp Dược phẩm; Phan Tấn Đạt, công nhân lái máy kéo huyện Chợ Gạo; Lê Thị Danh, Phạm Lệ Thủy, giáo viên giỏi trường mẫu giáo Bình Minh; Nguyễn Thị Hồng Xuân, công ty vật tư Tổng hợp, v.v…
Hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp luôn được Đảng bộ các cấp đặc biệt quan tâm, bởi sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có thể vươn ra các nước trên thế giới, đặc biệt các nước trong phe xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và một số nước Đông Âu. Vì vậy, việc phát động các phong trào thi đua sản xuất, tìm kiếm nguyên liệu, đưa năng suất lên cao, nâng chất lượng sản phẩm và giá thành rẻ … càng trở nên cần thiết. Qua các phong trào thi đua được các cấp ủy, các cấp chính quyền và công đoàn các cấp tổ chức, phát động, khu vực sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã mở rộng các cơ sở hiện có, trang bị thêm mạng lưới cơ khí, đông lạnh, chế biến đường, phát triển mạnh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, phục vụ đắc lực cho nông nghiệp phát triển, sản xuất mở rộng thêm các mặt hàng phục vụ cho tiêu dùng trong tỉnh và xuất khẩu. Đến năm 1983, trên địa bàn tỉnh đã sản xuất hơn 250 mặt hàng các loại. Qua cải tạo và xây dựng đã tổ chức được 54 xí nghiệp quốc doanh, 40 hợp tác xã, 64 tổ hợp tác, 404 tổ hợp, thu hút gần 40.000 thợ thủ công xã viên vào mặt trận sản xuất, có công ăn việc làm.
Các ngành: cơ khí công nghiệp, giao thông vận tải của tỉnh và huyện được trưởng thành, đã trang bị thêm một số thiết bị, phương tiện như: tàu kéo xà lan, tàu hút bùn, máy nghiền ruốc…. sản xuất ra nhiều loại hàng công nghiệp, phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp toàn diện, tạo thêm sự gắn kết giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, cùng thực hiện một mục đích là ra sản phẩm lương thực và thực phẩm.
Phát triển sản xuất nông nghiệp được các cấp Ủy và công đoàn các cấp coi là nhiệm vụ hàng đầu, nhằm tạo sự ổn định và phát triển.
Để thực hiện được mục tiêu về cải tạo và phát triển sản xuất nông nghiệp của Tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân tỉnh, thực hiện Nghị quyết III của Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam và Nghị quyết liên tịch số 264 của Bộ trưởng bộ Nông nghiệp và Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam về “Tổ chức phong trào công nhân viên chức phục vụ nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long”. Năm 1982, Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang cùng với Ty Nông nghiệp ra Nghị quyết liên tịch, thực hiện nhiệm vụ cải tạo và phát triển sản xuất nông nghiệp tỉnh Tiền Giang và triển khai thực hiện trong bộ máy quản lý nông nghiệp và công đoàn các cấp trong tỉnh.
Được các cấp công đoàn hướng dẫn, công đoàn viên trong giai cấp công nhân càng thấy rõ nhiệm vụ cải tạo và phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng và củng cố khối công nông liên minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhất là, Công đoàn đẩy mạnh phát động 3 phong trào: “Phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật – hợp lý hóa sản xuất”; “Phong trào phục vụ nông nghiệp”; “Phong trào thi đua với các điển hình tiên tiến”. Trong đó, nhiệm vụ “phục vụ nông nghiệp” làm trung tâm, lấy “sáng kiến cải tiến” làm mũi nhọn, “tiết kiệm” là quốc sách.
Từ chủ trương “Công nghiệp phục vụ nông nghiệp”, nhiều đơn vị cơ sở phát động phong trào “Thi đua phục vụ sản xuất nông nghiệp”, “Thi đua làm nông nghiệp giỏi”, nhiều cơ quan, ngành, đơn vị sản xuất đã tổ chức các Hội nghị nhằm “giao ước thi đua” liên kết phục vụ nông nghiệp, đưa công nhân, cán bộ kỹ thuật vào đồng ruộng.
Các đơn vị: Giao thông vận tải, Vật tư nông nghiệp, Thủy lợi, Điện lực, Tài chánh, Ngân hàng, Thương nghiệp, Lương thực… đã xây dựng kế hoạch hoạt động phục vụ nông nghiệp. Trong các năm từ 1981 đến 1983, cán bộ, công nhân viên trong tỉnh đã phát huy hơn 1.200 sáng kiến, cải tiến, tiết kiệm và làm lợi cho Nhà nước hơn 10.000.000 đồng (thời giá năm 1983).
Tại Hội nghị sáng kiến toàn quốc vào giữa năm 1982, tỉnh Tiền Giang có 3 gương mặt tiêu biểu, đại diện cho những tập thể và cá nhân có nhiều sáng kiến, là Nguyễn văn Thanh, Nguyễn Văn Toàn và Nguyễn Văn Bé; có 6 sáng kiến của các cá nhân: Nguyễn Văn Giáo, Cao Thành Hiếu – xí nghiệp Ép dầu dừa; Nguyễn Văn Còn – nhà máy cơ khí 1 tháng 5; Phạm Tấn Đạt – công nhân máy kéo huyện Chợ Gạo; Võ Văn Mạnh – công nhân cơ khí nông nghiệp huyện Gò Công Đông; Ngô Trọng Quyền – công ty Vật tư tổng hợp được Tổng Công đoàn cấp bằng khen và huy hiệu “Lao động sáng tạo”.
Phong trào sáng kiến – cải tiến kỹ thuật đã góp phần giải quyết cho các địa phương và các đơn vị những khó khăn về quản lý, về nguyên liệu, phụ tùng thay thế, tận dụng được phế phẩm, huy động được tiền vốn và tiết kiệm được lao động, tăng năng suất lao động. Phong trào này được chính quyền và Công đoàn các cấp đặc biệt quan tâm chỉ đạo.
Đầu năm 1983, tất cả các huyện, thị trong tỉnh tổ chức Ban phục vụ nông nghiệp, kết nghĩa với 10 hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Công nhân ngành máy kéo trong những năm từ 1981 đến 1983 tập trung giải quyết khâu quải quyết tốt khâu cày xới, huy động hơn 80% đầu máy kéo ra đồng, được bà con nông dân tín nhiệm. Một số huyện: Gò Công Đông, Gò Công Tây, Chợ Gạo, Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè tổ chức trình diễn lái máy kéo giỏi, để trao đổi kinh nghiệm kỹ thuật làm đất và cổ vũ phong trào thi đua xây dựng các đội máy kéo và trạm máy kéo là nông nghiệp giỏi.
Cùng với các địa phương tập trung vào sản xuất nông nghiệp, các ngành: Tài chánh, Ngân hàng, Giao thông, Vận tải, Lương thực, Thương nghiệp, Xuất khẩu… Công đoàn cùng với Ban Giám đốc bàn mục tiêu và biện pháp tổ chức phong trào thi đua cải tiến quản lý, đầu tư cấp vốn, thu mua vận chuyển, chế biến sản phẩm từ nông nghiệp. Nhờ đó, năng suất lúa không ngừng được tăng lên, năng suất lúa bình quân trên 5 tấn/ha.
Trên đồng ruộng Tiền Giang, sự chuyển biến rõ nét là thủy lợi nội đồng. Phong trào làm thủy lợi rộng khắp các huyện, các cơ quan, đoàn thể chung tay, tạo những kênh mương mới với độ dài hơn 150 km, đưa nước tới những vùng khô cạn, rửa phèn, mở rộng được đất trồng trọt, đặc biệt là sự “tiến quân” vào vùng Đồng Tháp Mười, vốn là vùng phè chua, đồng năn, cỏ lác, trở thành vùng khóm. Hàng triệu ngày công được huy động vào các công trình thủy lợi, với tinh thần “lao động xã hội chủ nghĩa”, đã tạo ra một hệ thống kênh rạch vừa tự nhiên vừa nhân tạo, bước đầu giải quyết một cách cơ bản khâu quan trọng về nước cho sản xuất nông nghiệp.
Cuộc vận động tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng được Công đoàn các cấp đi sâu chỉ đạo, tạo ra phong trào sâu rộng trong cán bộ, công nhân viên. Tại các cơ quan, đoàn thể, Công đoàn tổ chức đăng ký thi đua theo tinh thần Quyết định 15 của Hội đồng Bộ trưởng và Chỉ thị của Tổng Công đoàn về thực hành tiết kiệm. Việc đăng ký thi đua cụ thể cho từng cá nhân, tập thể đã tạo được ý thức tiết kiệm, chống lãng phí tham ô trong công nhân viên chức, giảm bớt chi phí từ 5 đến 10%, giảm bớt tiền hao vật tư, tận dụng các phế liệu, phụ tùng cũ để chế biến thay thế các phương tiện đầu xe, máy hoạt động ít tốn tiền. Phong trào được mở rộng ra các ngành nông nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp, lương thực, vật tư tổng hợp, thương nghiệp… bước đầu áp dụng chế độ thưởng phạt, có tác dụng kích thích được phong trào, hạn chế được tiêu cực, lãng phí.
Ngoài việc phát động tiết kiệm trong sản xuất, hưởng ứng chủ trương của Đảng và Nhà nước, các cấp công đoàn còn phát động công nhân viên chức gởi tiền tiết kiệm, đóng góp với Nhà nước tăng nguồn vốn đầu tư, xây dựng các cơ sở sản xuất, các công trình phúc lợi, được công nhân viên chức nhiệt tình ủng hộ, nhiều đơn vị đề ra mức gởi từng tháng từ 5 đồng đến 10 đồng (thời giá năm 1982) khoảng dưới 10% lương.
Qua tổng hợp từ 17 cơ sở, năm 1982 các cơ sở này đã tiết kiệm 194.643 đồng. Riêng công ty Xăng dầu Tiền Giang giảm hao hụt dưới định mức được 48 tấn dầu diesel, sở Điện lực thu hồi tận dụng được 2,4 tấn sắt thép đưa vào làm cột đường dây điện tuyến chùa Phật Đá.
Sáu tháng đầu năm 1983, trong 8 đơn vị đã tập hợp được số tiền tiết kiệm 121.150 đồng (thời giá năm 1983) và 10,2 tấn sắt phế liệu tận dụng đưa vào sản xuất, góp phần làm giảm khó khăn của địa phương trong hoàn cảnh đất nước bị bao vây cấm vận.
Cùng với cuộc vận động tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, Liên hiệp Công đoàn tỉnh phát động phong trào thi đua đăng ký xây dựng tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa. Mở đầu cho phong trào thi đua là cuộc vận động tập thể ghi tên đăng ký phấn đấu trở thành tổ lao động xã hội chủ nghĩa để bồi dưỡng, rèn luyện tập thể con người mới xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, làm nòng cốt cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa. Được sự quan tâm và chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban Nhân dân tỉnh, tổ chức Công đoàn nhanh chóng triển khai và quán triệt tầm quan trọng của phong trào xây dựng tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa. Từ cuối năm 1980, phong trào đã lan rộng khắp tỉnh.
Tại Hội nghị “Tổng kết Phong trào tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa” vào cuối năm 1983, ngoài việc đăng ký phấn đấu “tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa”, các ngành, các cơ sở đã đưa việc đăng ký các danh hiệu “thi đua tiên tiến”, “chiến sĩ thi đua” được mở rộng hơn, đi vào nền nếp từng khoảng thời gian 6 tháng, thành nguyên tắc có đăng ký mới xét duyệt, công nhận; gắn danh hiệu đạt được với việc khen thưởng cùng với các quyền lợi chính trị và kinh tế khác. Cách làm này thúc đẩy được các cá nhân, tập thể quan tâm phấn đấu đạt các danh hiệu ngày càng cao, nhiều nơi đạt tỷ lệ lao động tiên tiến rất cao, nhất là các tổ lao động xã hội chủ nghĩa, thường đạt từ 80 đến 90%.
Các phong trào: “Ba xung kích” trong thanh niên; “Người phụ nữ mới xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc” trong giới phụ nữ; “Làm nông nghiệp giỏi” trong công nhân viên chức và người lao động; “Lái xe an toàn” của sở Giao thông; “Hai tốt, năm dứt điểm” của sở Y tế… tuy được phát động trong giới hạn lứa tuổi, ngành nghề, đơn vị… nhưng vẫn thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, được cán bộ, nhân viên trong ngành có liên quan tham gia nhiệt tình, tạo được không khí thi đua sôi nổi và mang lại những kết quả tốt đẹp.
Trong việc tổ chức các phong trào thi đua trong công nhân viên chức, Công đoàn các cấp xem việc mở Hội nghị công nhân viên chức, ký kết hợp đồng tập thể, hợp đồng trách nhiệm giữa thủ trưởng và Công đoàn là biện pháp chủ yếu để thực hiện chức năng tham gia thực hiện và giám sát trong quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước của công nhân viên chức, phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức như Nghị định 182 và 217/ CP của Hội đồng Chính phủ quy định. Trong 2 năm 1982 – 1983, toàn tỉnh có 53 đơn vị mở Hội nghị công nhân viên chức. Ngoài ra, Công đoàn còn áp dụng các hình thức khác như ký giao ước thi đua, có chấm điểm kiểm tra, thực hiện công khai, so sánh, sơ kết, tổng kết và khen thưởng nhiều điển hình tiên tiến. Đặc biệt, phong trào tập thể lao động tiên tiến, lao động xã hội chủ nghĩa được dấy lên mạnh mẽ trong Công đoàn các cấp, các ngành.
Năm 1981 có 34 tổ đăng ký “Tổ lao động xã hội chủ nghĩa”, được công nhận 19 tổ.
Năm 1982 có 74 tổ đăng ký, được công nhận 33 tổ.
Năm 1983 có 127 tổ đăng ký, được công nhận 54 tổ.
Đặc biệt, có tổ 1 khoa Nhi, tổ 2 khoa Sản (Bệnh viện Đa Khoa), tổ cơ điện xí nghiệp dược phẩm đạt danh hiệu “Tổ lao động xã hội chủ nghĩa” 3 năm liền.
Bên cạnh việc phát động thi đua lao động xã hội chủ nghĩa, Công đoàn đặc biệt chăm lo bảo vệ quyền lợi và tham gia thực hiện các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công nhân viên chức. Trong 3 năm 1981 – 1983, mặc dù sản xuất có bước phát triển, nhưng giữa cung và cầu còn mất cân đối lớn, giá cả tăng vọt, những mặt hàng thiết yếu chưa cung cấp đủ, phải bù lỗ kéo dài; tình hình vật tư, nguyên liệu, năng lượng cho sản xuất thiếu hụt nghiêm trọng, công nhân một số xí nghiệp phải ngưng sản xuất hưởng 70% lương hoặc chuyển sang sản xuất phụ. Vì vậy, đời sống cán bộ, công nhân viên chức gặp rất nhiều khó khăn, tiền lương chỉ có thể nuôi sống bản thân người công nhân viên chức. Trước tình hình đó, các cấp Công đoàn một mặt tích cực cùng với chính quyền thực hiện một số chủ trương, chính sách cụ thể nhằm ổn định đời sống, mặt khác động viên, mặt khác phân tích để anh chị em công nhân thấy rõ nguồn gốc của những khó khăn hiện nay và phương hướng phấn đấu khắc phục những khó khăn đó. Công đoàn các cấp tích cực tham gia triển khai xét nâng lương, phân phối hàng hóa, quỹ phúc lợi cho công nhân viên chức, chế độ nghỉ ngơi, dưỡng sức…Năm 1981 nâng lương được 1.078 trường hợp. Năm 1982 nâng lương được 1.453 trường hợp. Năm 1983 nâng lương được 1.525 trường hợp.
Ngoài ra, Công đoàn còn thực hiện các chế độ chính sách khác, như bồi dưỡng ca 3, bồi dưỡng độc hại, bồi dưỡng phẫu thuật, trợ cấp khó khăn cho cán bộ, công nhân viên chức. Đặc biệt, việc trả lương khoán sản phẩm theo tinh thần Nghị định 146/ HĐBT, vừa kết hợp đúng đắn 3 lợi ích, vừa khuyến khích sản xuất, tăng năng suất lao động, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, tăng thu nhập chính đáng cho công nhân viên chức. Năm 1983, đã có hơn 40 đơn vị thực hiện lương khoán sản phẩm, lương bình quân của công nhân từ 200 đồng đến 300 đồng/ tháng.
Để góp phần cải thiện đời sống vốn còn nhiều khó khăn của công nhân viên chức, các Công đoàn cơ sở còn phát động phong trào tự tổ chức đời sống, trồng trọt, chăn nuôi heo, gà, vịt… bằng nhiều hình thức gia công cho Nhà nước để tăng thu nhập, góp phần giải quyết khó khăn cho gia đình. Nhiều cơ sở có điều kiện, chính quyền giao cho Công đoàn tổ chức sản xuất tự túc để cải thiện bếp ăn tập thể, ăn giữa ca, bảo đảm sức khỏe cho anh chị em công nhân viên chức. Thống kê trong 3 năm (1981 – 1983) trong toàn tỉnh, công nhân viên chức đã sản xuất tự túc 27.588 con heo, nuôi hơn 1.000.000 con cá, sản xuất 910 tấn lúa, trồng hơn 150 tấn rau các loại. Vào các ngày lễ, tết, Công đoàn cơ sở thường có thịt heo chia cho công nhân viên chức đem về gia đình.
Nhờ biết kết hợp, phát huy hết các nguồn đã có, nhiều đơn vị đã làm tốt công tác đời sống, như nhà máy cơ khí 1 Tháng 5, công ty Vật tư Nông nghiệp, chi cục Thống kê, Bệnh viện Đa khoa, sở Quản lý phân phối điện, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, trường Thủy Lợi 3,…
Bảo hiểm xã hội do Công đoàn quản lý là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động, trợ cấp lúc ốm đau, thai sản và tai nạn lao động. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội sẽ động viên được người lao động hăng hái thi đua sản xuất, lao động tăng năng suất. Trong nhiệm kỳ 1980 – 1983, Công đoàn các cấp đã cố gắng đưa dần chế độ quản lý bảo hiểm xã hội và từng bước chi đúng nguyên tắc. Trong 3 năm (1981 – 1983) Liên hiệp Công đoàn tỉnh còn thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức cho 893 lượt cán bộ, công nhân viên chức có nhiều thành tích trong phong trào thi đua và sức khỏe yếu tại các nhà nghỉ Công đoàn trong nước, 12 lượt cán bộ, công nhân viên chức được nghỉ mát tại nước ngoài.
Công tác bảo hộ lao động, an toàn lao động cũng được chú trọng. Trong 3 năm (1981 -1983), Công đoàn cùng với các ngành Công an, Lao động, Y tế tiến hành hướng dẫn, kiểm tra bảo hộ lao động theo tinh thần Thông tư 08/LB tại hầu hết các đơn vị sản xuất và phân phối lưu thông nhằm đảm bảo an toàn trong sản xuất, bảo vệ sức khỏe, phòng và chống bệnh nghề nghiệp, thực hiện khẩu hiệu “An toàn để sản xuất, sản xuất phải an toàn”, góp phần tăng năng suất lao động. Công nhân viên chức lao động trong môi trường độc hại, tùy ngành nghề mà được trang bị bảo hộ lao động như quần áo, ủng cách điện, giày vải, nón vải, áo đi mưa, găng tay vải, găng tay nhựa, găng tay cách điện… Nhiều cơ sở sản xuất đã đưa kế hoạch bảo hộ lao động vào kế hoạch sản xuất và tổ chức mạng lưới bảo hộ lao động giúp giám đốc và Công đoàn thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước về bảo hộ lao động.
Để thực hiện các chế độ, chính sách về nữ, Công đoàn các cấp phối hợp với giám đốc các đơn vị tổ chức các hoạt động nữ công nhân viên chức nhằm tăng cường sức khỏe, tạo điều kiện công tác, sản xuất như mở rộng tổ chức các nhóm nhà trẻ, mẫu giáo, thu hút thêm con của nữ công nhân viên chức vào nhà trẻ, mẫu giáo, giảm bớt sự vất vả của các bà mẹ. Số nhà trẻ không ngừng được tăng lên. Năm 1980 có 55 nhà trẻ, năm 1982 tăng lên 66 nhà trẻ, thu nhận được 1.763 cháu, với đội ngũ cô nuôi trẻ gồm 262 người. Có 665 lớp mẫu giáo với 806 cô, 22.958 cháu.
Từng đợt, Công đoàn tổ chức khám phụ khoa, cho thuốc điều trị chị em bị bệnh, làm nhà vệ sinh cho chị em ở những đơn vị có đông nữ. Vận động chị em sinh đẻ có kế hoạch, đặt vòng tránh thai. Có 5 cơ quan, xí nghiệp đạt tiêu chuẩn 5 dứt điểm.
Bằng các hoạt động nêu trên, công nhân viên chức đã động viên được tinh thần lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội, giảm bớt được những khó khăn trong cuộc sống, tình trạng công nhân viên chức tự nghỉ việc do kinh tế khó khăn được giảm nhiều.
Công tác thanh tra của Công đoàn và công nhân tuy còn mới, nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của tổ chức Công đoàn, lại phù hợp với nguyện vọng của công nhân viên chức, nên chỉ trong một thời gian ngắn đã hình thành được 259 Ban thanh tra công nhân với 412 tổ, gồm 1.314 ủy viên và 493 thanh tra viên. Hoạt động của Ban thanh tra công nhân đã nhanh cóng đi vào chiều sâu, bám nhiệm vụ chính trị, trọng tâm công tác của ngành, cơ sở, giám sát kiển tra thực hiện quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức, động viên tinh thần cách mạng, hăng say lao động sản xuất, cải thiện đời sống, ngăn ngừa tiêu cực, thực hiện đúng chế độ, chính sách. Năm 1983, kết quả báo cáo từ các huyện và cơ sở, các Ban thanh tra đã phát hiện hàng chục ngàn vụ tiêu cực, ăn cắp, hối lộ, ức hiếp quần chúng, mất mát, lãng phí, thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa hàng chục triệu đồng. Các cấp có thẩm quyền đã kết luận xử lý 665 vụ, thu hồi 684.324 đồng, 77 tấn xi măng, 5.715 kg gạo, 40 m3 gỗ; xét giải quyết đơn khiếu tố 277 trường hợp, tuy nhiên, vẫn còn tồn đọng 29 trường hợp.
Có được những thành tích kể trên là do tổ chức Công đoàn các cấp lớn mạnh không ngừng cùng với sự phát triển của đội ngũ công nhân viên chức và phong trào công nhân viên chức. Tổ chức Công đoàn đã có những bước trưởng thành cả chiều rộng lẫn chiều sâu, bắt rễ ở hầu hết các đối tượng cán bộ, công nhân viên chức. Hoạt động của Công đoàn dần dần đi vào đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ hơn trước, ngày càng đúng hơn với phương pháp vận động quần chúng.
Trong điều kiện khó khăn chung của đất nước, trong tình trạng thiếu nhiều cán bộ, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã nỗ lực khắc phục những khó khăn, quyết tâm kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiên trì tranh thủ các cấp ủy Đảng , bố trí cán bộ Công đoàn ở các cấp cả về số lượng và chất lượng như Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quy định.
Được sự quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện của Tỉnh ủy đối với tổ chức Công đoàn, đội ngũ cán bộ Công đoàn ngày càng được phát triển, nâng lên về trình độ, năng lực, tổ chức công tác, đưa hoạt động công đoàn đi vào đúng chức năng, nhiệm vụ. Các hình thức vận động tổ chức phong trào cũng được mở rộng, giảm bớt tình trạng khô cứng, nghèo nàn.
Cơ cấu bộ máy và đội ngũ cán bộ Công đoàn được đổi mới, trẻ hóa một phần ở cơ sở, đội ngũ cán bộ bán chuyên trách có nhiệt tình, năng nổ, tận tụy trong công tác, sâu sát trong phong trào quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Lực lượng chuyên trách tuy mới nhưng có quyết tâm, nhiệt tình, có phẩm chất đạo đức tốt, giản dị, khiêm tốn, chịu khó học tập, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Công tác phát triển đoàn viên được quan tâm, một số nơi thực hiện tốt, đưa tỷ lệ đoàn viên đạt từ 80 đến 90%, nhất là khu vực hành chính sự nghiệp cấp tỉnh. Đoàn viên mới kết nạp thống kê được: Năm 1980 kết nạp 1.417 đoàn viên. Năm 1981 kết nạp 2.398 đoàn viên. Năm 1982 kết nạp 3.815 đoàn viên. Nâng tổng số đoàn viên lên 31.827 người.
Tuy nhiên, số đoàn viên Công đoàn chiếm tỷ lệ trong công nhân viên chức vẫn còn thấp, mới chiếm 67%.
Đặc biệt, công tác “xây dựng Đảng trên cơ sở xây dựng giai cấp công nhân” được đẩy mạnh. Công đoàn chú trọng xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, rèn luyện, đào tạo cán bộ cho Đảng, cho chính quyền, giới thiệu đoàn viên Công đoàn vào Đảng, v.v… Trong 3 năm (1981 – 1983) Công đoàn và Đoàn Thanh niên đã chọn và giới thiệu với chi bộ Đảng được 1.490 công đoàn viên ưu tú, Đảng đã xét kết nạp 916 đồng chí.
Theo sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, các cấp Công đoàn tổ chức cho công nhân viên chức tham gia đóng góp ý kiến sự lãnh đạo của Chi bộ, về vai trò lãnh đạo, về phẩm chất, đạo đức của người đảng viên. Qua đóng góp, ý thức trách nhiệm của đoàn viên Công đoàn được biểu hiện tốt hơn, các phong trào được phát động có nhiều thuận lợi và sự tham gia của Công đoàn viên trở nên sôi nổi hơn.
Để tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đặc biệt quan tâm công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, xem công tác bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch cán bộ là điều kiện cần để phát triển tổ chức Công đoàn.
Trong 3 năm (1981 – 1983) trường Công đoàn tỉnh mở lớp Bồi dưỡng cho 206 lượt cán bộ, tổ chức 14 đợt tập huấn ngắn ngày về các chuyên đề “Bảo hiểm xã hội”, “Tài chính”, “Nữ công”, “Kiểm tra”, “Bảo hộ lao động”… Một số ngành, huyện, cơ sở tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn ngày về các chuyên đề về hoạt động Công đoàn. Đặc biệt, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã cử được 7 đồng chí theo học dài hạn trường Công đoàn Trung ương, 3 đồng chí đi nghiên cứu ngắn ngày và dài ngày tại Liên Xô.
Chặng đường 3 năm (1981 – 1983) của nhiệm kỳ II là chặng đường nhiều thử thách. Đây là những năm cả nước đang trong cơ chế quan liêu bao cấp, Mỹ và các nước phương Tây cấm vận kinh tế nước ta, cuộc sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn, lạm phát phi mã. Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, để đưa phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong công nhân viên chức đi lên, Công đoàn các cấp trên địa bàn Tiền Giang đã không ngừng tự đổi mới mình, phát huy khả năng tự chủ, năng động, tạo ra các phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần quyết định việc thực hiện thắng lợi chỉ tiêu, kế hoạch Nhà nước. Giai cấp công nhân ngày càng liên minh chặt chẽ với nông dân, tập hợp, đoàn kết xung quanh mình đông đảo quần chúng nhân dân lao động, tạo ra một động lực mới của cách mạng, làm chỗ dựa vững chắc cho Đảng và Nhà nước ta.
Vận dụng phương châm: “Nhà nước và công nhân cùng bàn, cùng làm, cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi ích”, các phong trào thi đua đã thu hút được đông đảo lực lượng công nhân viên chức tham gia, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ trong phong trào công nhân viên chức đã xuất hiện nhiều nhân tố mới, nhiều điển hình tiên tiến, nhiều tập thể và cá nhân xuất sắc trong quản lý sản xuất, góp phần tháo gỡ những khó khăn cho cơ quan, đơn vị, xí nghiệp.
Đi đôi với việc xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy và đào tạo cán bộ, Công đoàn ngày càng đóng vai trò tích cực hơn trong việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên chức, thông qua việc tham gia và giám sát các chế độ chính sách, tự tổ chức cải thiện đời sống để giảm bớt khó khăn cho cán bộ, công nhân viên chức.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích to lớn đã đạt được, phong trào công nhân viên chức và hoạt động Công đoàn còn bộc lộ những hạn chế, đó là: Ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của một số Công đoàn viên chưa rõ nét, từ đó thái độ lao động chưa nghiêm túc, còn nặng về lợi ích vật chất trước mắt mà chưa thấy lợi ích lâu dài. Tính tổ chức kỷ luật của một số công nhân viên chức chưa cao; trình độ, năng lực tham gia quản lý kinh tế, quản lý nhà nước chưa đáp ứng; một số khác chưa an tâm cuộc sống khó khăn, có người phải bỏ việc hoặc sa vào thoái hóa, biến chất, lợi dụng sơ hở trong quản lý của Nhà nước, ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa; Hoạt động Công đoàn có nơi còn nặng về hành chính, chưa sâu sát cơ sở.
Nhìn chung, qua 3 năm (1981 -1983) thực hiện Nghị quyết Đại hội lần II, như Báo cáo trình Đại hội lần III của Liên hiệp Công đoàn Tiền Giang nhận xét: “Trong 3 năm qua, tình hình chung cả nước và ở tỉnh nhà, về mặt kinh tế, sản xuất và đời sống tiếp tục còn khó khăn, có mặt gay gắt hơn trước. Được các Nghị quyết của Đảng soi sáng, mở đường, gỡ những ràng buộc trong công tác quản lý, sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối, thúc đẩy được sản xuất, giải quyết được một phần khó khăn về đời sống của công nhân viên chức, tạo điều kiện cho công nhân viên chức phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ. Được các Nghị quyết và sự hướng dẫn, giúp đỡ của Tổng Công đoàn về nội dung, phương pháp công tác, tổ chức phong trào, giúp cho cán bộ Công đoàn đi vào đúng trọng tâm phục vụ nhiệm vụ chính trị, tổ chức xây dựng phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tổ chức Công đoàn đạt được nhiều tiến bộ mới, đáng phấn khởi.”
- ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG LẦN III VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 1983 – 1988:
BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Từ năm 1983, tình hình kinh tế – xã hội đất nước ta vô cùng khó khăn, phức tạp. Nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, sản xuất trì trệ, nguyên vật liệu, hành hóa khan hiếm, đời sống nhân dân, nhất là công nhân viên chức càng trở nên khó khăn, vất vả, tiêu cực ngày càng phổ biến. Yêu cầu cấp thiết của tình hình kinh tế – xã hội lúc này là phải nhanh chóng và kiên quyết có hành loạt các giải pháp đồng bộ để chặn đứng khủng hoảng trên tất cả các lĩnh vực đời sống – xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V của Đảng đã đề ra đường lối tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ tổng quát của chặng đường đầu là: Tăng cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục khó khăn, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chặn đứng và loại trừ những biểu hiện tiêu cực, đạt những tiến bộ quan trọng trong mọi lĩnh vực, tạo ra thế cân đối mới của nền kinh tế, đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc và mạnh mẽ hơn trên con đường tiếp theo.

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ III cũng nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu trong thời kỳ này là: Tập trung phát triển nông nghiệp, ra sức phát triển ngư nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, kết hợp nông nghiệp với công nghiệp để hình thành cơ cấu công – nông nghiệp hợp hợp lý, đồng thời hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp với hình thức tập đoàn sản xuất và hợp tác xã, giành thế chủ động trên mặt trận phân phối lưu thông nhằm đạt thêm một bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đẩy mạnh xuất khẩu, tiếp tục xây dựng thêm nhiều cơ sở kinh tế – văn hóa – xã hội.
ĐẠI HỘI III:
Quán triệt Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và thực hiện Chỉ thị số 26/TCĐ ra ngày 25/1/1983 của Tổng Công đoàn Việt Nam về việc mở Đại hội Công đoàn cơ sở, tiến tời Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam, Ban Thường vụ Liên hiệp Công đoàn tỉnh tập trung chỉ đạo triển khai tổ chức Đại hội Công đoàn các cấp.
Được sự nhất trí của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam, Đại hội Đại biểu Công đoàn tỉnh Tiền Giang nhiệm kỳ III được tổ chức từ ngày 17 đến ngày 18/3/1983 tại hội trường Ấp Bắc, trung tâm của thành phố Mỹ Tho. Đại hội đã vinh dự được đón tiếp đồng chí Lê Văn Phẩm, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Tiền Giang; đồng chí Nguyễn Công Bình, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang; các đồng chí đại diện cho các cơ quan của Tổng Công đoàn Việt Nam; các đồng chí đại diện cho các Sở, Ban, Ngành trong tỉnh Tiền Giang. Ngoài ra, Đại hội còn đón tiếp các đại biểu Liên hiệp Công đoàn các tỉnh bạn Long An, Vĩnh Long, Sóc Trăng…
Đại hội đã đánh giá tình hình công nhân viên chức và hoạt động Công đoàn nhiệm kỳ II (1980 – 1983), trên cơ sở quán triệt phương hướng, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ III và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ của phong trào công nhân viên chức và người lao động, tập trung là: “Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, dấy lên phong trào cách mạng sôi nổi của công nhân viên chức đi đầu thi đua phát triển sản xuất, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa về công, nông nghiệp, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước hàng năm; Cùng với Nhà nước chăm lo ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa cho công nhân viên chức, đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, vận động công nhân viên chức tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ cơ quan, xí nghiệp, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng lực lượng công nhân viên chức lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, củng cố và xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, làm chỗ dựa vững chắc cho Đảng và chính quyền trong tỉnh”.
Một số chỉ tiêu phấn đấu được Đại hội thông qua, như:
- Sản xuất đạt từ 195.000 đến 200.000 ha gieo trồng lương thực với tổng sản lượng từ 750.000 đến 800.000 tấn (so với năm 1982 tăng từ 100.000 đến 150.000 tấn.
- Huy động lương thực từ 180.000 đến 200.000 tấn.
- Giá trị công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đạt 250 triệu đồng (thời giá năm 1983).
- Cơ bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, chủ yếu bằng tập đoàn sản xuất và một số hợp tác xã. Kết hợp chặt với cải tạo công, thương nghiệp. Phải tiến hành một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa toàn diện ở cơ sở, nhằm phát triển sản xuất, đồng thời thực hiện Nhà nước nắm được đại bộ phận sản phẩm hàng hóa tại gốc, phục vụ cho việc đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và thiết lập trật tự mới trên mặt trận phân phối lưu thông.
- Vốn chi cho xây dựng cơ bản đến năm 1985 đạt từ 150 triệu đến 200 triệu đồng/năm.
- Đảm bảo tốt an ninh chính trị, tăng cường trật tự và an toàn xã hội làm thất bại các hoạt động chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, đề cao pháp chế xã hội chủ nghĩa vì cuộc sống yên lành, văn minh, hạnh phúc của nhân dân.
Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ nêu trên, Đại hội đề ra 5 yêu cầu cần tập trung thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội Công đoàn lần thứ III, đó là:
Một: Vận động công nhân viên chức phát huy quyền làm chủ tập thể, xây dựng củng cố chính quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
“Liên hiệp Công đoàn tỉnh kết hợp chặt chẽ với các cơ quan,ban, ngành, đoàn thể góp phần đắc lực vào việc phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức, tạo điều kiện để công nhân viên chức tham gia quản lý công việc của Nhà nước và quản lý xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố cơ quan, ban, ngành vững mạnh. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt Nghị định 182 và 217/CP của Hội đồng Chính phủ trong các xí nghiệp, cơ quan…Phải giải quyết trong sạch nội bộ. Theo dõi và đóng góp ý kiến với các cơ quan có trách nhiệm giải quyết nhanh chóng, chính xác những khiếu tố, khiếu nại của cán bộ, công nhân viên chức.”
Hai: Phát động phong trào cách mạng trong công nhân viên chức thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.
“Nhiệm vụ hàng đầu của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay là đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm động viên, tổ chức tập hợp lực lượng thúc đẩy phong trào cách mạng sôi nổi, liên tục, tự giác và chủ động sáng tạo, tinh thần tự lực tự cường của công nhân viên chức và lao động trong tỉnh, thi đua lao động sản xuất, công tác và thực hành tiết kiệm, thực hiện thắn lợi các chương trình, mục tiêu kinh tế của Đảng.
Đẩy mạnh phong trào vận động xây dựng tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa, học tập và nhân điển hình tiên tiến.
Đẩy mạnh phong trào thi đua phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp. Vận động công nhân viên chức tham gia xây dựng lực lượng vũ trang, giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc”.
Ba: Cùng với Nhà nước ổn định và từng bước cải thiện đời sống cho công nhân viên chức:
“Chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết 3 của Ban Chấp hàng Trung ương Đảng đã quy định “Các xí nghiệp quốc doanh phải giao nộp toàn bộ sản phẩm thuộc kế hoạch Nhà nước cho thương nghiệp quốc doanh và hệ thống vật tư của Nhà nước, không được giữ lại sản phẩm tự tiêu thụ hoặc để thưởng bằng hiện vật”. Đề cao nghĩa vụ và kỷ luật nộp tích lũy và các khoản nộp khác của xí nghiệp quốc doanh. Công đoàn cùng với chuyên môn xây dựng tốt kế hoạch sản xuất, nhằm sử dụng hết lực lượng lao động và nguyện vật liệu, phế liệu vào sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội và có tích lũy để góp phần cảo thiện đời sống cho công nhân viên chức trong đơn vị. Tuyệt đối không để tình trạng công nhân không có việc làm phải trả lương chờ đợi 70%”
“Công đoàn các ngành phân phối lưu thông, nhất là ngành thương nghiệp, lương thực, thủy sản, vật tư… ra sức vận động công nhân viên chức phấn đấu thực hiện chỉ tiêu thu mua nắm nguồn hàng như lương thực và nông sản, hàng hóa có giá trị cao về tay Nhà nước”.
“Phấn đấu tiếp tục đảm bảo cung cấp đủ 9 mặt hàng theo tiêu chuẩn định lượng, mặt hàng nào không có điều kiện cung cấp bằng hiện vật thì đề Nhà nước bù bằng tiên cho hợp lý”
“Chăm lo xây dựng các nhà ăn, bếp ăn tập thể 3 tốt, tổ chức tốt bữa ăn giữa ca cho công nhân viên chức và nâng dần mức ăn ngày càng cao hơn; Tiếp tục và đẩy mạnh phong trào tăng gia lương thực, trồng rau màu, cây ăn trái, chăn nuôi tập thể và gia đình. Các cấp Công đoàn phải coi việc vận động phát triển kinh tế phụ gia đình là cấp thiết trong tình hình kinh tế chung còn khó khăn, để góp phần đảm bảo mức sống của công nhân viên chức”.
Bốn: Tăng cường công tác giáo dục chính trị và tư tưởng, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa:
“Thường xuyên giáo dục các quan điểm cơ bản của Đảng được thể hiện trong đường lối, các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trước hết là giáo dục làm thông suốt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V, Nghị quyết 3, Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết của Tổng Công đoàn và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, làm cho công nhân viên chức nhận rõ những thuận lợi và những khó khăn của tình hình kinh tế, xã hội cả nước và của tỉnh ta. Xác định lòng tin tuyệt đối vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất và công tác, chống mọi biểu hiện tiêu cực, bi quan, dao động, hoài nghi, giảm sút ý chí chiến đấu, đề cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết vạch trần và đấu tranh chống các luận điệu chiến tranh tâm lý, những âm mưu phá hoại của bọn phản động, bảo vệ tốt cơ quan, kho tàng và tài sản xã hội chủ nghĩa”.
Năm: xây dựng và củng cố tổ chức, cải tiến phương thức hoạt động của các cấp Công đoàn:
“Kiện toàn tổ chức, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công đoàn trong giai đoạn mới.
Cải tiến cơ cấu của Ban Chấp hành Công đoàn các cấp, làm cho Ban Chấp hành vừa thể hiện được tính tiêu biểu cho sự đoàn kết của giai cấp công nhân, vừa có năng lực hoạt động thiết thực, phát huy được vai trò, chức năng của Công đoàn trong việc tham gia công việc Nhà nước, tham gia quản lý kinh tế, xã hội, giáo dục công nhân viên chức tổ chức phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật và kế hoạch kinh tế – xã hội của Nhà nước”.
“Xây dựng tổ chức Công đoàn cơ sở vững mạnh… Tăng cường mọi mặt công tác đoàn viên, làm cho đoàn viên thường xuyên có ý thức phấn đấu thực hiện 5 nhiệm vụ, 5 quyền của đoàn viên, gắn bó với tổ chức Công đoàn; Đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, phấn đấu phát triển đoàn viên trong những năm tới đạt từ 80 – 90% trong tổng số công nhân viên chức.
Cải tiến cách làm việc của Công đoàn các cấp. Ra sức cải tiến nội dung sinh hoạt và phương pháp công tác, đi sâu sản xuất, đi sát công nhân viên chức, phục vụ kịp thời cho cơ sở, chống bệnh quan liêu, hình thức, làm cho mọi hoạt động của Công đoàn tác động thiết thực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, kỹ thuật, xây dựng người công nhân viên chức xã hội chủ nghĩa.”
Đại hội Đại biểu lần thứ III Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang đã bầu ra Ban chấp hành mới, gồm 33 ủy viên, 11 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Thị Cúc được bầu giữ chức vụ Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang, đồng chí Nguyễn Hoàng được bầu giữ chức vụ Phó Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang nhiệm kỳ 1983 – 1988 [8].
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐẠI HỘI:
Sau Đại hội III của Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang, tình hình kinh tế – xã hội nước ta nói chung, tỉnh Tiền Giang nói riêng vẫn còn phức tạp. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Vật giá leo thang. Sản xuất chậm phát triển, có nơi đã tỏ ra trì trệ. Tiêu cực ngày càng phổ biến. Đồng lương thực tế khó trang trải cho cuộc sống thường ngày của công nhân viên chức. Trong tình hình khó khăn chung của đất nước, một số ít công nhân viên chức có biểu hiện dao động, có hiện tượng bỏ việc, bỏ cơ quan, nhưng đại bộ phận công nhân viên chức của tỉnh Tiền Giang vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của mình, kiên trì chịu đựng khó khăn, thiếu thốn, gắn bó với cơ quan, xí nghiệp, đi đầu trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Yêu cầu cấp thiết của tình hình kinh tế – xã hội lúc này là phải nhanh chóng và kiên quyết có hàng loạt biện pháp đồng bộ để chặn đứng khủng hoảng trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra đường lối tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ tổng quát của chặng đường đầu là: “Tăng cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục khó khăn, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chặn đứng và loại trừ những biểu hiện tiêu cực, đạt những tiến bộ quan trọng trong mọi lĩnh vực, tạo ra thế cân đối mới của nền kinh tế, đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc và mạnh mẽ hơn trong con đường tiếp theo.”
Để Nghị quyết của Đại hội Công đoàn tỉnh và Nghị quyết Đại hội III của Tỉnh Đảng bộ (nhiệm kỳ 1983 – 1986) thực sự đi vào cuộc sống của công nhân viên chức và người lao động, Liên hiệp Công đoàn tỉnh tổ chức nhiều buổi báo cáo, quán triệt Nghị quyết của Đại hội III và Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ, nêu bật các nội dung cơ bản của Nghị quyết, với quan điểm: “Tập trung phát triển nông nghiệp, ra sức phát triển ngư nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, để hình thành cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý, đồng thời hoàn thành hợp tác xã nông nghiệp với hình thức tập đoàn sản xuất và hợp tác xã, giành thế chủ động trên mặt trận phân phối lưu thông nhằm đạt thêm một bước ổ định và cải thiện đời sống nhân dân… Thực hiện 5 chương trình kinh tế – xã hội có mục tiêu, nhằm phát huy thế mạnh, khai thác có chiều sâu về lao động, đất đai, ngành nghề của tỉnh nhà”[9]
Các hoạt động về triển khai cho cán bộ, công nhân viên chức học tập, nghiên cứu các Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước sau Đại hội III của Công đoàn Tiền Giang đã góp phần tạo sự đồng thuận trong công nhân, viên chức quan điểm và nhận thức về tình hình khó khăn của đất nước, nhiệm vụ của cán bộ, công nhân viên chức và người lao động phải ra sức phấn đấu để vượt qua những khó khăn về kinh tế, ổn định đời sống, đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng. Các cấp Công đoàn bám sát nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra, vận động công nhân, viên chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội năm 1984. Báo cáo của Liên hiệp Công đoàn tỉnh nêu: Cần tập trung tổ chức phong trào thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1984, tổ chức phong trào liên kết thi đua phục vụ sản xuất nông nghiệp; tham gia với Nhà nước tạo ra những chuyển biến trên mặt trận phân phối lưu thông, chăm lo đời sống công nhân, viên chức.
Trong bối cảnh đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, các cấp Công đoàn đã tập trung mọi hoạt động của mình vào việc vận động công nhân, viên chức nêu cao tinh thần làm chủ, vượt qua khó khăn với ý thức tự lực tự cường, sáng tạo trong lao động, phát huy sáng tạo, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, khai thác, tạo nguồn tại chỗ, đảm bảo sản xuất, ổn định đời sống, đưa phong trào thi đua ngày càng mạnh mẽ hơn.
Tùy theo ngành và lĩnh vực chuyên môn đảm nhiệm, các cấp Công đoàn đã phát động các phong trào: Thi đua lao động sản xuất tiết kiệm, phấn đấu hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1984; Thi đua vượt mức kế hoạch lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn; Thi đua liên kết, phấn đấu trờ thành tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa; Thi đua với các điển hình tiên tiến; Thi đua phát huy sáng kiến, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, Thi đua “2 tốt” của ngành giáo dục; Thi đua “3 nhất” của ngành bưu điện; Thi đua “sử dụng thuốc hợp lý và an toàn” của ngành y tế; Thi đua “5 quản” ở khối sản xuất, v.v…
Một trong những trọng tâm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của nhiệm kỳ Công đoàn lần thứ III là tổ chức phong trào thi đua, thực hiện kế hoạch Nhà nước. Công đoàn các cấp triển khai kế hoạch, lấy xí nghiệp Tôm Đông lạnh và xí nghiệp Rau quả Đông lạnh làm điểm chỉ đạo để nhân rộng, phát huy tinh thần tháo gỡ khó khăn, tự chủ sản xuất và kinh doanh, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật. Ban chấp hành Công đoàn các cấp phối hợp lãnh đạo cơ quan bàn bạc, thống nhất đẩy mạnh việc thực hiện lương khoán, lương sản phẩm, phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, mở rộng liên doanh, liên kết kinh tế, v.v… Bằng các hình thức, biện pháp như: mở Hội nghị công nhân viên chức, ký kết trách nhiệm giữa chính quyền và Công đoàn được đông đảo đoàn viên Công đoàn, công nhân viên chức ở các ngành, các địa phương trên mọi lĩnh vực tham gia với tinh thần trách nhiệm cao.
Qua các phong trào cách mạng nói trên, công nhân viên chức đã đăng ký và hoàn thành nhiều sản phẩm, công trình mang tên “Chào mửng Đại hội Công đoàn các cấp” và “Chào mừng Đại hội Đảng”, các địa phương và đơn vị có phong trào tốt như: Nông trường Tân Lập, Công đoàn thành phố Mỹ Tho, Công đòan thị xã Gò Công, Công đoàn ngành Y tế, Công đoàn ngành Xây dựng, v.v… đã tạo được không khí thi đua sôi nổi. Riêng khu vực sản xuất có hơn 1.200 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, giải quyết được một phần khó khăn về nguyên liệu, phụ tùng thay thế cho sản xuất, cải tiến quản lý, cải tiến lề lối làm việc, v.v… làm lợi cho Nhà nước hơn 20.000.000 đồng (thời giá vào những năm 80 của thế kỷ XX).
Là một tổ chức của giai cấp công nhân ở một tỉnh có kinh tế nông nghiệp là chủ đạo, sự gắn kết giữa công nhân và nông dân, giữa công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với nông nghiệp là vấn đề rất quan trọng. Vì vậy, trong quá trình chỉ đạo phong trào công nhân viên chức – lao động và hoạt động công đoàn, các cấp Công đoàn đã bám sát nhiệm vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Năm chương trình kinh tế lớn của tỉnh đều gắn với sản xuất nông nghiệp.
Đối với sản xuất công nghiệp: Trong những năm từ 1983 đến 1988, các cấp Công đoàn trong khu vực công nghiệp luôn tập trung vào việc vận động cán bộ, công nhân viên chức phát huy tinh thần làm chủ trong lao động, cần cù , sáng tạo, từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế kinh tế, thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phát huy tính năng động, sáng tạo đã sắp xếp lại sản xuất, bố trí lực lượng, khả năng lao động hợp lý, đẩy mạnh việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của cơ sở, địa phương, tạo ra thêm nhiều nguyên liệu, mặt hàng sản phẩm mới phục vụ nông nghiệp, cung cấp cho tiêu dùng và xuất khẩu. Năm 1998, giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng 2,9 lần so với năm 1983, đưa tổng thu nhập bình quân hàng năm tăng 5%, đảm bảo chi thu ngân sách. Số đơn vị hoàn thành kế hoạch ngày càng tăng, trong đó có nhiều đơn vị liên tục nhiều năm hoàn thành kế hoạch. Chất lượng sản phẩm kinh doanh có tiến bộ. Đặc biệt năm 1987, có 2 sản phẩm: khóm và tôm đông lạnh xuất khẩu đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc gia.
Một số đơn vị trước năm 1985 làm ăn thua lỗ đã bắt đầu làm ăn có lãi. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế của đất nước đang lâm vào tình trạng khủng hoảng, đời sống công nhân viên chức tại các đơn vị vừa mới thoát khỏi thua lỗ vẫn còn rất khó khăn, chưa cải thiện được bao nhiêu.
Để phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, thực hành tiết kiệm trở thành một phong trào rộng lớn trong công nhân viên chức, các cấp Công đoàn kiên trì thuyết phục, tổ chức và tạo điều kiện cho công nhân viên chức tham gia phát huy sáng kiến, trên cơ sở đó, các cấp Công đoàn xét và đề nghị khen thưởng. Sau 5 năm (1983 – 1987) đã có 3.522 sáng kiến, làm lợi cho Nhà nước 29.123.887 đồng (so với giá năm 1984). Số sáng kiến so với nhiệm kỳ trước tăng 7 lần, làm lợi cho Nhà nước tăng 20 lần. Có 69 cán bộ công chức được Tổng Công đoàn Việt Nam tặng bằng khen và huy hiệu “Lao động sáng tạo”, trong đó có 12 người là nữ.
Trong tình hình sản xuất và đời sống ngày càng khó khăn, các cấp Công đoàn đã tích cực, chủ động cùng với các cơ quan, chính quyền tìm mọi biện pháp cải thiện đời sống của cán bộ, công nhân viên chức. Liên hiệp Công đoàn tham gia cùng với Tỉnh ủy, Ủy ban và các ngành liên quan thực hiện các chế độ, chính sách, quyền lợi cho cán bộ, công nhân viên chức như điều chỉnh bù giá kịp thời tương đương với giá cả thị trường, tăng mức trợ cấp từ 24% lên 64%, giữ vững chế độ lương thực ăn theo, sắp xếp điều chỉnh lương cho hợp lý, giải quyết khó khăn thương xuyên, phục hồi chế độ ăn giữa ca, bồi dưỡng độc hại, tham gia cho vay vốn phát triển gia đình. Đặc biệt, các Công đoàn trực thuộc đơn vị công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh tiến hành các hình thức: khoán công trình, khoán sản phẩm từ 1 khâu đến nhiều khâu, tiến tới khoán quỹ lương, khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động. Các Công đoàn cơ sở làm tốt như: xí nghiệp Liên hiệp Dừa, xí nghiệp Liên hiệp Dược, Liên hiệp Dược, liên hiệp xí nghiệp Cơ Khí… kinh doanh ngày càng mở rộng . Việc trích nộp ngân sách mỗi năm mỗi tăng, đời sống công nhân từng bước đảm bảo, giảm bớt một phần khó khăn.
Tuy nhiên, từ năm 1986, tình hình sản xuất nhìn chung gặp nhiều khó khăn do chỉ đạo sai lầm về giá – lương – tiền, đời sống công nhân viên chức bị sa sút, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Nhưng với ý thức tự lực tự cường, nhiều đơn vị, nhà máy, xí nghiệp đã khắc phục khó khăn, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, vươn lên hoàn thành kế hoạch. Toàn tỉnh có 141 công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng. Một số công trình như xí nghiệp Cơ khí 1 Tháng 5, xí nghiệp Ép dầu dừa, xí nghiệp Quốc doanh đánh cá, trại nuôi heo 30 tháng 4; các đường tải điện Cái Bè – Hòa Khánh, Cai Lậy – Ba Dừa, Cai Lậy – Mỹ Phước Tây, Long Hưng, chùa Phật Đá … đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực, trực tiếp góp phần phát triển sản xuất trong những năm khó khăn về kinh tế.
Về phong trào thi đua phát triển sản xuất nông nghiệp: Được xác định là một tỉnh nông nghiệp, trong suốt nhiệm kỳ 1983 – 1988, Liên hiệp Công đoàn tập trung vào việc chỉ đạo các cấp Công đoàn tổ chức phát động các phong trào thi đua, đặc biệt các ngành có liên quan phục vụ nông nghiệp, dồn sức phấn đấu giải quyết khó khăn về vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ, góp phần quyết định đưa năng suất, sản lượng trong những năm đầu 1984 – 1985 tăng lên từ 8 đến 10%.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, các ngành trong tỉnh đã tham gia phục vụ sản xuất nông nghiệp ở những mức độ khác nhau.
Lực lượng cán bộ, đoàn viên thuộc các ngành: cơ giới nông nghiệp, thủy lợi, vật tư nông nghiệp, nông trường, xí nghiệp cơ khí, giao thông vận tải, lương thực, bưu điện, điện lực, thương nghiệp, giáo dục, y tế, văn hóa, ngân hàng, tài chánh cấp tỉnh và huyện đã vận động công nhân, viên chức, khắc phục khó khăn, làm việc không kể ngày đêm, sửa chữa hàng trăm máy bơm, sản xuất hàng chục ngàn nông cụ cải tiến, phát triển hệ thống thủy lợi, bổ sung giống, phân bón và công cụ cầm tay, giải quyết vấn đề vốn vay, giúp nông dân vượt qua khó khăn, góp phần to lớn vào thành quả chung trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Từ năm 1985, tình hình kinh tế – xã hội tiếp tục có những diễn biến phức tạp, vật tư, phân bón thiếu hụt, lại thiên tai, hạn hán kéo dài, năng suất lúa không cao. Các cấp Công đoàn tập trung tổ chức phong trào liên kết thi đua phục vụ sản xuất nông nghiệp, khắc phục việc thiếu vật tư, phương tiện, điều kiện sản xuất, giữ vững lao động sản xuất, tham gia với Nhà nước tạo ra những chuyển biến trên mặt trận phân phối lưu thông, chăm lo đời sống của công nhân, viên chức và người lao động. Các phong trào “Thủy lợi nội đồng” cuốn hút hàng vạn người tham gia, “Đưa tiến bộ khoa học vào đồng ruộng” đã tạo nên vùng lúa năng suất cao và ngày càng được mở rộng, sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 376 kg (năm 1980), lên 600 kg (năm 1985), góp phần vào việc ổn định đời sống kinh tế – xã hội ở tỉnh nhà.
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và lưu thông phân phối: Những năm từ 1983 đến 1988, kinh tế – xã hội ở nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Để khắc phục những khó khăn, thiếu thốn tại địa phương, Đại hội Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ III nhiệm kỳ 1983 – 1986 nêu: “ Phải giành thế chủ động trên mặt trận phân phối lưu thông nhằm đạt thêm một bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đẩy mạnh xuất khẩu, tiếp tục xây dựng thêm nhiều cơ sở kinh tế – văn hóa – xã hội, tăng mức làm nghĩa vụ với Nhà nước, tạo ra những điều kiện để phát triển nhanh hơn và có quy hoạch hơn cho những năm tiếp sau”. Bám vào mục tiêu, kế hoạch kinh tế – xã hội của tỉnh, các tổ chức Công đoàn thuộc Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang đã tổ chức các phong trào thi đua hợp lý hóa sản xuất, phối hợp với chính quyền tập trung vào các công trình trọng điểm, từng bước đổi mới phương thức hoạt động, phát huy quyền làm chủ của công nhân viên chức, cải tiến quản lý, sửa đổi bổ sung chế độ bảo vệ, ngăn chặn tiêu cực, tham ô, v.v… Qua các phong trào thi đua, một số công trình có ý nghĩa kinh tế – xã hội ra đời, như: Cảng Mỹ Tho, nhà máy Đông lạnh gia súc, xí nghiệp ép Dầu dừa, nông trường khóm Tân Lập, công trình Ngọt hóa Gò Công, với sự tăng vụ (từ 1 vụ lên 2 và 3 vụ) cho vùng đất phía đông của tỉnh… tạo ra gương mặt mới đầy hứa hẹn về sự trù phú của một vùng đất từng bị nhiễm mặn.
Đối mặt với sự biến động về giá cả, tiền – hàng mất cân đối, đời sống của công nhân viên chức bị xáo trộn; lương, gạo thường bị lĩnh chậm, nhiều mặt hàng thiết yếu trở nên khan hiếm, giá trị tiền lương bị giảm tới 40%, các cấp Công đoàn một mặt chăm lo đời sống của công nhân viên chức thông qua các cuộc vận động công đoàn viên chăn nuôi ngoài giờ như heo, gà, vịt, đào ao thả cá, những nơi có điều kiện, gia công may mặc, gia công đan lát, phát triển tiểu thủ công nghiệp; mặt khác, phát động các phong trào “tiết kiệm”, “cải tiến kỹ thuật”, đồng thời mở rộng liên kết, liên doanh, thu mua nắm hàng phục vụ cho nhân dân tiêu dùng và xuất khẩu, mở rộng mạng lưới mậu dịch tới tận vùng sâu vùng xa; cải tiến phương thức kinh doanh, xóa bỏ bao cấp, thực hiện cơ chế 1 giá, chuyển dần sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Cùng với việc phát động các phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, thực hành tiết kiệm được đoàn viên Công đoàn trong toàn tỉnh hưởng ứng, các cấp Công đoàn, đặc biệt là Công đoàn ngành thương nghiệp tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ, mậu dịch viên về tinh thần trách nhiệm trong mua bán, bảo quản hàng hóa, tránh mất mát, giảm hao hụt, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân. Trong 5 năm (1983 – 1987), nguồn hàng xuất khẩu tăng nhanh, từ 16.000.000 rúp/đô la (năm 1983) lên 27.000.000 rúp/đô la (năm 1987), doanh số mua vào và bán ra tăng 20 lần, hoàn thành nghĩa vụ giao nộp về trung ương.
Trong lĩnh vực giáo dục – văn hóa – xã hội: Mặc dù đời sống của công nhân viên chức gặp rất nhiều khó khăn, có một số ít bỏ việc, tìm những công việc khác có thu nhập cao hơn, nhưng hầu hết cán bộ, công nhân, viên chức hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao,… vẫn không nản chí, không bỏ nghề, tìm mọi cách để vừa hoàn thành nhiệm vụ, vừa cải thiện đời sống gia đình và bản thân, tham gia các phong trào do tổ chức Công đoàn phát động.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế trong những năm khó khăn này nhìn chung vẫn phát triển. Trường học, bệnh xá được xây dựng trên khắp địa bàn trong tỉnh. Công tác y tế được chuyển hướng, phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa, cán bộ trung – sơ cấp và thuốc chữa bệnh được tăng cường. Mạng lưới thông tin, văn hóa, báo chí được phát triển sâu rộng đến phường, xã, gần gũi với nhân dân, giúp cho cong nhân, viên chức và nhân dân lao động nắm bắt được thông tin kịp thời, mở rông thêm kiến thức.
Trong bối cảnh khó khăn chung, công nhân viên chức đã cố gắng phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt các nhiệm vụ, chỉ tiêu, kế hoạch của Đảng và Nhà nước giao.
Về hoạt động Công đoàn:
Vào cuối năm 1983, trên cơ sở Đại hội của Liên hiệp Công đoàn các tỉnh, thành phố và các Công đoàn ngành trực thuộc Tổng Công đoàn Việt Nam. Ngày 16 tháng 11 năm 1983, Đại hội V Công đoàn Việt Nam được tổ chức. Đại hội đã thống nhất lấy ngày thành lập Công hội đỏ Bắc kỳ 28 tháng 7 năm 1929 làm ngày truyền thống của giai cấp công nhân và lao động Việt Nam. Đại hội quyết định đến năm 1984 sẽ tổ chức trọng thể 55 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam trong hệ thống Công đoàn cả nước.
Thực hiện Nghị quyết V Công đoàn Việt Nam, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa việc triển khai Nghị quyết Đại hội III Công đoàn Tiền Giang, ngày 13 tháng 4 năm 1984, Ban Thường vụ Liên hiệp Công đoàn Tỉnh ban hành Chỉ thị tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5. Bản Chỉ thị nêu bật những nội dung hoạt động thiết thực kỷ niện ngày Quốc tế Lao động và yêu cầu các cấp Công đoàn trong tỉnh chủ động triển khai.
Tiếp đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng có Chỉ thị số 39/ CT- TƯ về tổ chức kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam. Ngày 28 tháng 7 năm 1984, tại Hội trường Đỏ bên dòng sông Tiền, Liên hiệp Công đoàn Tỉnh tổ chức trọng thể lễ mít tinh kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam.
Tại buổi lễ, thay mặt cho lãnh đạo Công đoàn tỉnh, đồng chí Nguyễn Thị Cúc, Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh đọc diễn văn nêu rõ những chặng đường lịch sử của phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn Tiền Giang, kêu gọi giai cấp công nhân Tiền Giang hãy đoàn kết một lòng xung quanh Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Tiền Giang, xây dựng tỉnh nhà ngày càng giàu đẹp.
Phát huy truyền thống quý báu của giai cấp công nhân trong lịch sử, phong trào công nhân viên chức – lao động và hoạt động Công đoàn tiếp tục vượt qua khó khăn, tạo nên những chuyển biến mới.
Với mục tiêu “năng suất, chất lượng, hiệu quả”, với các hình thức và biện pháp: liên kết, giao ước thi đua, mở Hội nghị công nhân viên chức, ký kết hợp đồng trách nhiệm giữa chính quyền và Công đoàn; Ở từng ngành tổ chức các phong trào thi đua phù hợp với nội dung hoạt động của ngàh và tổ chức cho công nhân viên chức đăng ký thi đua. Chỉ sau một thời gian ngắn, vào cuối năm 1984 toàn tỉnh đã có 364 công trình mang tên “28 tháng 7” tiến tới chào mừng các ngày lễ lớn trong năm 1985.
Các phong trào thi đua thực hiện kế hoạch Nhà nước, như: Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, thực hành tiết kiệm, được các cấp Công đoàn tập trung vận động, kiên trì thuyết phục, tổ chức cho công nhân viên chức phát huy sáng kiến, xét duyệt khen thưởng. Năm 1988, theo con số thống kê chưa đầy đủ đã có 3.522 sáng kiến, làm lợi cho Nhà nước 29.123.887 đồng (thời giá năm 1988). Số sáng kiến so với nhiệm kỳ trước tăng 7 lần.
Ngay từ khi được phát động, phong trào tiết kiệm được công nhân viên chức hưởng ứng thực hiện. Sau 5 năm phát động đã tiết kiệm được khoảng 300.000 lít xăng – dầu, trên 10 tấn sắt thép tận dụng chế biến lại, đưa vào sản xuất. Tuy nhiên, hiện tượng lãng phí, mất mát vẫn xảy ra khá phổ biến, gây thất thoát lớn về tài sản xã hội chủ nghĩa.
Phong trào đăng ký xây dựng tổ lao động xã hội chủ nghĩa diễn ra khá rầm rộ trong các xí nghiệp, cơ quan. Từ năm 1983 đến năm 1988 đã có 335 tổ đang ký, trong đó có 24 tổ đạt danh hiệu “Tổ lao động xã hội chủ nghĩa” 5 năm liền. Cuối năm 1983, tại lễ tổng kết, có 492 người đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua”; cuối năm 1987 có 1.325 người đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua” cấp cơ sở, ngành, huyện, trong đó có 14 công nhân viên chức 7 năm liền đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua” cấp tỉnh và cơ sở; có 2 công nhân viên chức đạt “Chiến sĩ thi đua toàn quốc”.
Công tác bảo hộ lao động và phòng chống cháy nổ có những chuyển biến tích cực. Trong những năm từ 1983 đến 1988 có nhiều đơn vị thực hiện tốt như: Công đoàn huyện Cai Lậy, Công đoàn huyện Gò Công Đông, công ty Vật tư Tổng hợp, xí nghiệp Liên hiệp Dược, xí nghiệp Liên hiệp Hải sản, xí nghiệp Liên hiệp Rau quả xuất khẩu, sở Quản lý phân phối điện, Bưu điện tỉnh… nhiều năm liền được tỉnh và Tổng Công đoàn tặng bằng khen. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số cơ quan thiếu quan tâm chỉ đạo, còn để tai nạn xảy ra nghiêm trọng, nhất là đối với các đơn vị khai thác lâm sản. (Riêng xí nghiệp Liên hiệp Lâm sản Tỉnh ủy để xảy ra chết 6 người).
Sau khi có Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam xác định vai trò, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn và công nhân viên chức trong việc tham gia phục vụ sản xuất, phát triển nông nghiệp, Liên hiệp Công đoàn tỉnh chọn địa bàn huyện và các ngành có liên quan đến sản xuất nông nghiệp làm nơi để chỉ đạo thực hiện phong trào. Từ Công đoàn huyện Châu Thành mở rộng ra các nơi, như: Gò Công, Cai Lậy, Cái Bè để tổ chức các hình thức giao ước thi đua huyện với huyện, ngành với ngành, liên kết, kết nghĩa giữa đơn vị với hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Từng huyện hình thành Ban Chỉ đạo phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp.
Với những nội dung thi đua phù hợp với từng ngành, như: ngành cung ứng vật tư thi đua với 3 yêu cầu: “đủ số lượng, đúng chủng loại, kịp thời gian”; ngành giống cây trồng thi đua tạo ra nhiều giống cây mới, kháng được sâu bệnh, đạt năng suất cao; ngành bảo vệ thực vật và thú y thi đua thực hiện và tìm nhiều biện pháp hữu hiệu để dập tắt bệnh dịch,… đã tạo ra không khí thi đua sôi nổi trong từng ngành, đem lại hiệu quả thiết thực trong việc phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Ngoài việc tổ chức các phong trào thi đua, Công đoàn còn tham gia quản lý kinh tế, thực hiện chế độ, chính sách. Trong điều kiện cán bộ Công đoàn nói chung còn hạn chế về trình độ quản lý kinh tế, các cấp Công đoàn tạo mọi điều kiện để cán bộ Công đoàn học tập, nghiên cứu về quản lý kinh tế kỹ thuật, khai thác, nắm tình hình và phát hiện cho Công đoàn, mặt khác, cán bộ Công đoàn nghiên cứu để nắm vững các chủ trương, Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước để xem xét, phát hiện những vấn đề thực hiện không đúng, hoặc chưa hợp lý để đề xuất với Đảng và tham gia với chính quyền.
Từ khi có Nghị quyết 8 của Trung ương về giá – lương – tiền, Nghị quyết 306 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội VI, các cấp Công đoàn tham gia sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, bố trí lao động, tinh giản biên chế, giải quyết việc làm cho công nhân viên chức dôi ra, tham gia xây dựng kế hoạch và bàn biện pháp thực hiện kế hoạch, khắc phục những khó khăn, vướng mắc diễn ra trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Với tinh thần trách nhiệm cao, Công đoàn đã tham gia với chính quyền giải quyết có kết quả các vấn đề như: việc nâng lương, trả lương hàng tháng chậm; tiền dạy thêm giờ, công tác phí cho giáo viên ở các huyện Cái Bè, Cai lậy, Gò Công Tây; giáo viên nghỉ việc không đúng chính sách ở Cai Lậy và các ngành, chính quyền phải thu nhận trở lại làm việc, truy hoàn các chế độ cho công nhân viên chức với 42 trường hợp.
Các cấp Công đoàn đã cùng với chính quyền quan tâm giải quyết chế độ trợ cấp thường xuyên, đột xuất cho người ăn theo, phù hợp với tình hình giá cả biến động, tiền tàu xe cho công nhân viên chức đi nghỉ dưỡng sức, v.v…
Trong tình hình sản xuất và đời sống ngày càng khó khăn, tiền lương thực tế của công nhân viên chức bị giảm sút, có nơi công nhân viên chức chỉ trang trải được khoảng 7 đến 10 ngày trong 1 tháng. Do cuộc sống khó khăn kéo dài, một số công nhân viên chức nghỉ việc hoặc bỏ việc. Từ năm 1983 đến năm 1988, đã có 1.224 công nhân viên chức các ngành xin nghỉ việc, nhiều nhất là giáo viên và công nhân ngành xây dựng cơ bản. Kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn dẫn đến sức khỏe bị giảm sút. Kiểm tra sức khỏe ngành giáo dục năm 1987 cho thấy: sức khỏe loại A (tức loại tốt) đạt 10%, loại B (tức loại trung bình) đạt 10%, loại C (sức khỏe kém) có tới 80%. Công ty Vệ sinh thành phố Mỹ Tho qua khám sức khỏe định kỳ cho 49 cán bộ, công nhân viên chức chỉ có 2 người đạt sức khỏe loại A, còn lại 47 người sức khỏe loại C. Trước tình hình khó khăn về đời sống của công nhân viên chức, Công đoàn các cấp đã tích cực tham gia với chính quyền tìm mọi biến pháp cải thiện đời sống cho cán bộ, công nhân viên chức. Liên hiệp Công đoàn tham gia cùng với Tỉnh ủy, Ủy ban và các ngành liên quan thực hiện tốt các chế độ, chính sách, quyền lợi cho cán bộ, công nhân viên chức như điều chỉnh bù giá kịp thời tương đương với gía cả thị trường, tăng mức trợ cấp từ 24% lên 64%, giữ vững chế độ lương thực ăn theo, sắp xếp, điều chỉnh lương cho hợp lý, giải quyết khó khăn thường xuyên, bồi dưỡng độc hại, cho vay vốn phát triển kinh tế gia đình, v.v… Đặc biệt, các Công đoàn trực thuộc đơn vị sản xuất kinh doanh tiến hành các hình thức trả lương theo khoán sản phẩm. Nhiều công nhân viên chức có thêm khoản tiền thưởng (thưởng năng suất, chất lượng, sáng kiến, tiết kiệm, hoàn thành kế hoạch…). Từ đó, khích lệ cán bộ, công nhân viên chức lao động sáng tạo, tăng năng suất lao động, lương công nhân được tăng thêm trên 1.000 đồng/tháng, có người lên 3.000 đồng/tháng (thời giá năm 1988).
Ngoài ra, các cấp Công đoàn đã vận dụng chế độ, chính sách của từng cơ quan, xí nghiệp, trích từ quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ sản xuất phụ, giải quyết thêm về nhà ở, vận động công nhân viên chức chăn nuôi, trồng trọt, làm thêm các nghề phụ để giải quyết phần nào khó khăn về đời sống.
Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp nhằm ổn định đời sống công nhân viên chức, các cấp Công đoàn đặc biệt quan tâm thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội. Trong 5 năm (1983 – 1987), Công đoàn đã giải quyết cho 15.215 lượt người đi nghỉ dưỡng sức theo chế độ của Công đoàn. Các Công đoàn huyện, Công đoàn ngành, cơ sở đều có kế hoạch riêng tổ chức cho công nhân viên chức trong đơn vị đi tham quan, nghỉ mát các nơi hàng năm. Mặc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, cán bộ, công nhân viên chức Tiền Giang còn tiết kiệm tiền tiêu xài để mua công trái xây dựng đất nước. Đợt 1983 – 1984 công nhân viên chức trong tỉnh đã mua 5.232.000 đồng, vượt 120% kế hoạch; Đợt 1987 – 1988 đạt gần 29.000.000 đồng (thời giá 1988), ủng hộ đường dây tải điện 15 KW của tỉnh đạt 4.631.000 đồng; ủng hộ chiến sĩ Trường Sa 3.000.000 đồng (thời giá 1988).
Công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng là một nhiệm vụ quan trọng của công tác Công đoàn. Trong suốt nhiệm kỳ 1983 – 1988, Công đoàn các cấp đã tổ chức cho công nhân viên chức, đoàn viên học tập, quán triệt các Nghị quyết, chủ trương, chính sách, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước. Tập trung có kết quả cao nhất là đợt học tập Nghị quyết 8 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa 5, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Chỉ thị 13 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác vận động quần chúng” và các Chỉ thị, Nghị quyết của Tổng Công đoàn Việt Nam và của Tỉnh ủy Tiền Giang.
Đặc biệt, tháng 6 năm 1985, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V đã ban hành Nghị quyết về “giá – lương – tiền” nhằm thực hiện cơ chế 1 giá đối với cùng 1 mặt hàng trên thị trường. Biện pháp đi kèm là đổi tiền với tỷ lệ thu đổi 1 đồng tiền mới bằng 10 đồng tiền cũ.
Do việc thực hiện Nghị quyết tác động mạnh mẽ đến đời sống cán bộ, công nhân, viên chức và hoạt động Công đoàn, nên Tổng Công đoàn Việt Nam đã có Chỉ thị và Chương trình hành động chỉ đạo thực hiện.
Ngày 10 tháng 7 năm 1985, Tổng Công đoàn ban hành Chỉ thị 18 về nhiệm vụ của Công đoàn thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương.
Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã khẩn trương tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ Công đoàn các cấp và đội ngũ cán bộ quản lý các quan điểm tư tưởng cơ bản của Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8, các chính sách cụ thể, các phương án thực hiện để tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, công nhân, viên chức.
Việc thực hiện chính sách bù giá vào lương bước đầu có kết quả nhất định, nhưng về sau giá cả lên cao, giá trị đồng lương thực tế bị giảm sút, đời sống của công nhân viên chức càng khó khăn hơn. Các cấp Công đoàn kịp thời giải thích về tình hình kinh tế – xã hội, động viên công nhân viên chức hoàn thành tốt các mục tiêu kinh tế – xã hội hàng năm, đồng thời cùng với các cấp Ủy và chính quyền tháo gỡ những khó khăn về đời sống, ổn định được tư tưởng của công nhân viên chức trong các thời điểm khó khăn.
Qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, tuyệt đại đa số cán bộ, công nhân, viên chức gắn bó với cơ quan, xí nghiệp, trường lớp , hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Quyền làm chủ tập thể của công nhân viên chức được phát huy hơn trước, thể hiện qua các đợt tham gia phê bình xây dựng Đảng, đấu tranh chống các vụ việc tiêu cực, chọn đại biểu ứng cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, xây dựng chính quyền, góp ý bỏ phiếu tín nhiệm Ban giám đốc… có hiệu quả, như: xí nghiệp Liên hiệp Dừa, huyện Gò Công Tây, huyện Cai Lậy, thành phố Mỹ Tho. Tuy nhiên, còn nhiều đơn vị Công đoàn chưa làm hết chức năng, vai trò của mình, còn mang tính hình thức nên vẫn còn nhiều hạn chế.
Từ các phong trào cách mạng, đội ngũ công nhân viên chức được trưởng thành, lớn mạnh. Trong nhiệm kỳ 1983 – 1988, các cấp Công đoàn đã đào tạo, bồi dưỡng nhiều công nhân tiên tiến, giới thiệu cho Đảng kết nạp được 1.922 đảng viên.
Xác định được đúng vị trí, trách nhiệm của mình trên mặt trận đấu tranh chống các tiêu cực, hưởng ứng chủ trương của Đảng, nhất là khi có bài báo của tác giả N. V. L về “Những việc cần làm ngay” thì các cấp Công đoàn phát động rộng rãi, nhiều công nhân viên chức mạnh dạn phát hiện, đấu tranh, xóa bỏ các hiện tượng, vụ việc tiêu cực trong đời sống kinh tế – xã hội. Mặc dù gặp trở ngại lớn, cá biệt có sự “đương đầu” nguy hiểm cho cá nhân. Nhiều cán bộ Công đoàn và công nhân viên chức mạnh dạn đấu tranh bền bỉ, kiên quyết với các vụ tiêu cực lớn trong cơ quan, xí nghiệp, công ty… Điển hình như: Công ty Nông sản thực phẩm, công trình Đô thị, xí nghiệp Bánh kẹo, nông trường 3 tháng 2 thành phố Mỹ Tho, công ty Du lịch, sở Thể dục – Thể thao, Đài phát thanh, trạm Thuế – Cái Bè, v.v… có vụ thất thoát của Nhà nước hàng triệu đồng. Công nhân viên chức đã mạnh dạn tố giác những sai trái của cán bộ lãnh đạo có chức có quyền. trong nhiệm kỳ 1983 – 1988, công nhân viên chức đã phát hiện và tố giác 1.352 vụ, trong đó xử lý bước đầu thu hồi được 26.109.000 đồng (thời giá 1988). Tuy nhiên, còn nhiều vụ tiêu cực lớn chưa được xử lý đến nơi đến chốn, hiện tượng trù dập “tinh vi” còn nhiều. Một số công nhân viên chức có tin h thần dũng cảm phát hiện, tố giác chống tiêu cực, như do giải quyết, xử lý của các cấp còn chậm, hoặc xử lý rồi nhưng chưa thỏa đáng, còn nhiều vụ việc chưa thanh tra, kết luận, xử lý làm ảnh hưởng đến lòng tin, giảm sút tinh thần, ý chí đấu tranh của công nhân viên chức.
Đối với công tác tổ chức, nhiệm kỳ 1983 – 1988 là giai đoạn lực lượng công nhân viên chức và tổ chức Công đoàn phát triển khá mạnh. Đội ngũ công nhân viên chức toàn tỉnh tính đến cuối năm 1987 lên tới 48.500 người , tăng 14.625 người so với năm 1983. Trong đó, công nhân khu vực sản xuất vật chất chiếm 50%, nữ chiếm 42%, lực lượng công nhân trẻ tuổi chiếm 62% (tăng 2 lần so với nhiệm kỳ trước).
Hệ thống Công đoàn được xây dựng đều khắp, song song với tổ chức của Nhà nước. Đến năm 1988, tỉnh có 8 Công đoàn ngành, 8 Công đoàn huyện, thành phố và thị xã (so với nhiệm kỳ trước, có thêm Công đoàn thị xã Gò Công). Toàn tỉnh có 697 Công đoàn cơ sở, 3.631 tổ Công đoàn. Tổng số đoàn viên có 42.075 người, so với Nghị quyết vượt 8%, so với nhiệm kỳ trước tăng 18%.
Qua việc củng cố, xây dựng tổ chức Công đoàn cơ sở đã sàng lọc cán bộ Công đoàn yếu kém, không đủ năng lực đưa ra khỏi bộ máy Công đoàn cơ sở, thay vào đó là những cán bộ đầy đủ năng lực và nhiệt tình, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ Công đoàn. Hệ thống Công đoàn từng cấp được chấn chỉnh, cơ cấu đội ngũ cán bộ từng bước được đổi mới, được nâng chất. Năm 1987 có 384 Công đoàn cơ sở đăng ký phấn đấu vững mạnh. Kết quả cuối năm 1987 có 186 Công đoàn cơ sở được công nhận vững mạnh. Nổi bất là Công đoàn huyện Cai lậy, Công đoàn huyện Gò Công Tây, Công đoàn ngành Giáo dục, Công đoàn ngành Thương nghiệp.
Công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ luôn được các cấp Công đoàn đặc biệt quan tâm. Trong những năm từ 1983 đến 1988, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã cử 6 đồng chí theo học đại học trong và ngoài nước, 21 đồng chí đi học cao cấp và trung cấp Công đoàn, có 1.702 đồng chí được tập huấn nghiệp vụ Công đoàn ngắn ngày. Ngoài ra, các ban Chuyên đề của Liên hiệp Công đoàn và vác ngành, huyện mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 4.312 người dự.
Công đoàn các cấp với quyết tâm quán triệt tư tưởng “Đổi mới”, với quan điểm “Lấy dân làm gốc”, với tinh thần “Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật” của Đảng để tuyên truyền, vận động cán bộ, công nhân viên chức phát huy hơn nữa tính năng động, sáng tạo, đưa sản xuất đi vào ổn định. Công đoàn các cấp đã tổ chức thực hiện tốt việc cải tiến tổ chức, lấy ý kiến công nhân viên chức tham gia dự thảo Nghị quyết xây dựng giai cấp công nhân; dự thảo quy định về quyền làm chủ lao động công nhân viên chức ở cơ sở. Từ cuối năm 1987 đến giữa năm 1988, một phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần thứ IV đã được phát động. Các Công đoàn cơ sở tiến hành Đại hội Công đoàn, tiến tới Đại hội Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần thứ IV.
X X
X
Trong suốt chặng đường 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Liên hiệp Công đoàn lần thứ III, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang, giai cấp công nhân lao động đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn về đời sống, tập trung trí tuệ và sức lực khắc phục việc thiếu vật tư, phương tiện, điều kiện sản xuất, giữ vững lao động sản xuất, góp phần đưa năng suất nông nghiệp, tổng sản lượng công nghiệp – tiểu thủ công công nghiệp ngày càng cao, làm nòng cốt và đi đầu trong cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng và lĩnh vực phân phối lưu thông.
Có được những thành tích trên là do có chủ trương của Đảng sát đúng và phù hợp, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp Ủy Đảng, tập trung là Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sự chỉ đạo sâu sát của Tổng Công đoàn Việt Nam, sự phối hợp của Ủy ban Nhân dân tỉnh và các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Tổ quốc.
Lực lượng công nhân viên chức có thái độ đúng đắn, giữ được bản chất tốt đẹp của mình với nhân dân lao động, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, nêu cao ý thức tự lực, tự cường, tháo gỡ những khó khăn, giữ vững sản xuất và công tác trên mọi lĩnh vực.
Trong tổ chức thực hiện Nghị quyết của Liên hiệp Công đoàn, các cấp Công đoàn đã bám sát nhiệm vụ chính trị, định hướng của của Đảng, từng bước đưa hoạt động Công đoàn vào đúng chức năng, nhiệm vụ, đóng vai trò ngày càng tích cực hơn trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân viên chức. Đội ngũ cán bộ Công đoàn chuyên trách và không chuyên trách ngày càng có trách nhiệm và nhiệt tình công tác Công đoàn. Nhất là Liên hiệp Công đoàn đã quan tâm đào tạo cán bộ Công đoàn cấp cơ sở và trên cơ sở với các hình thức đào tạo trong tỉnh, trong nước và nước ngoài, nên năng lực hoạt động Công đoàn ngày càng được nâng lên.
Tuy nhiên, đội ngũ công nhân viên chức còn non trẻ, trưởng thành từ nền sản xuất nhỏ nên nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn trong từng bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ còn đơn giản. Công đoàn các cấp chưa làm rõ vai trò công tác vận động quần chúng, chưa đi sâu vào từng đối tượng công nhân viên chức; nội dung, phương thức hoạt động còn chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng. Năng lực lãnh đạo của cán bộ Công đoàn vẫn còn hạn chế.
Vượt qua những thử thách trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, vượt qua những khó khăn về đời sống, cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động Tiền Giang đã tạo ra những phong trào thi đua sôi nổi, đem lại hiệu quả kinh tế – văn hóa – xã hội to lớn, đóng góp phần mình một cách xuất sắc vào công cuộc xây dựng quê hương Tiền Giang ngày càng đổi mới, tươi đẹp hơn, được thể hiện qua việc thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm, các công trình thủy lợi, ngọt hóa Gò Công, các chương trình đưa khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng, trong đấu tranh chống tiêu cực, xây dựng cơ quan an toàn, trong cải tiến phương thức hoạt động của Công đoàn.
CHƯƠNG III
CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG XÂY DỰNG
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN CỦA ĐẢNG
(7/1988 – 4/1998)
- BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12 năm 1986), tình hình ở trong và ngoài nước đã có những thay đổi và diễn biến nhanh chóng.
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mở ra khả năng phát triển nhanh cho nền kinh tế thế giới, lôi cuốn tất cả các nước vào nền văn minh “hậu công nghiệp” hay nền văn minh “trí tuệ”. Các nước vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình. Nước ta có cơ hội mới đi vào đối thoại và cải thiện quan hệ với Trung Quốc, các nước ASEAN và một số nước khác nhằm phá thế bao vây và cấm vận của Mỹ và các nước tư bản suốt một thập kỷ qua. Tuy nhiên, diễn biến nghiêm trọng nhất là tình hình cải tổ, cải cách của Liên Xô và Đông Âu trong những năm cuối thập kỷ 80 là đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang mở cuộc phản kích nhằm tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Tình hình trên đã gây thêm ảnh hưởng bất lợi đến sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhân dân ta. Cách mạng Việt Nam phải đương đầu với những kẻ thù có âm mưu thâm độc khác, trong khi những đồng minh chiến lược của mình đang có nguy cơ sụp đổ.
Ở trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng, nhất là những năm 1986 – 1988, sản xuất chưa đáp ứng đủ tiêu dùng, đặc biệt là lương thực. Hậu quả nặng nề của cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền năm 1985 và những sai lầm, khuyết điểm trong quản lý kinh tế đang tác động mạnh đến tình hình mọi mặt của đất nước, dẫn đến tình trạng lạm phát phi mã, trong 3 năm (1986 – 1988) mỗi năm tăng 3 con số. Năm 1986, lạm phát lên đến 774%. Đây là hiện tượng lạm phát chưa từng có trong lịch sử. Trong lúc đó, những quan điểm “dân chủ hóa và công khai”, “chủ nghĩa xã hội dân chủ và nhân đạo”, “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” phủ nhận những thành tựu của chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đấu tranh giai cấp, mất cảnh giác chính trị, v.v… đã gieo ảnh hưởng rất xấu đến tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, nhất là trong giới trí thức và văn nghệ sĩ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử tìm ra lối thoat cho cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng kéo dài hơn 10 năm, và đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ở trong tỉnh, bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng, đặc biệt thành tựu bước đầu về chương trình kinh tế như khai hoang Đồng Tháp Mười, Ngọt hóa Gò Công, thì cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn chậm thay đổi, tình hình sản xuất vẫn chưa ổn định, còn mất cân đối về vốn, vật tư nguyên liệu, giá cả thường biến động, phân phối lưu thông còn rối ren, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, đặc biệt đối với công nhân viên chức.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Tiền Giang từ 14 – 18/10/1986 xác định phương hướng của nhiệm kỳ là: “Bố trí cơ cấu sản xuất và đầu tư gắn liền với việc ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật, mở rộng liên kết liên doanh, tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng quan hệ sản xuất mới nhằm ổn định, phát triển sản xuất, ổ định thị trường giá cả, tài chính và tiền tệ, ổn định và cải thiện một bước đời sống nhân dân lao động, hình thành cơ chế quản lý mới, lấy kế hoạch làm trung tâm, thực hiện hạch toán kinh tế xã hội chủ nghĩa”
Sự đòi hỏi lúc này, như tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng là phải “Đổi mới về cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần; từng bước xóa bỏ cơ chế hành chính tập trung quan liêu bao cấp”; “Đổi mới vai trò quản lý và điều hành của Nhà nước về kinh tế – xã hội”. Nhất là đổi mới về tư duy, đổi mới phong cách làm việc, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên, chống các biểu hiện tiêu cực.
Ngày 10 tháng 12 năm 1987, Tổng Công đoàn Việt Nam ra Thông tri số 37/TT- TCĐ và số 38/TT – TCĐ hướng dẫn chi tiết việc tổ chức Đại hội công nhân viên chức và tổ chức hoạt động của Hội đồng xí nghiệp trong các cơ sở kinh tế quốc doanh.
Đặc biệt, ngày 14 tháng 11 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 217/HĐBT về các chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh tế xã hội chủ nghĩa đối với các xí nghiệp quốc doanh. Tiếp đó, ngày 22 tháng 3 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 50/ HĐBT ban hành Điều lệ xí nghiệp Quốc doanh thay Điều lệ cũ quy định tại Nghị định số 93/CP ngày 8/4/1977 của Hội đồng Chính phủ. Đây là những quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước. Những quyết định này đã khẳng định quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, gắn liền với quyền làm chủ tập thể của người lao động thông qua Đại hội Công nhân viên chức và Hội đồng xí nghiệp.
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như Thông tri hướng dẫn của Tổng Công đoàn Việt Nam, từ đầu năm 1988, Công đoàn tỉnh Tiền Giang tập trung chỉ đạo các xí nghiệp quốc doanh từng bước mở Đại hội Công nhân viên chức và bầu Hội đồng xí nghiệp, đồng thời hướng dẫn các Công đoàn ngành, Công đoàn cơ sở tiến hành Đại hội Công đoàn các cấp, tiến tới Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần thứ IV.
Trong quá trình hướng dẫn Công đoàn các cấp tiến hành Đại hội, Công đoàn tỉnh Tiền Giang đã chỉ rõ cho đoàn viên, công nhân viên chức về vai trò, vị trí của công nhân cũng như vai trò, chức năng của tổ chức Công đoàn trong tình hình mới. Từ đó, tiến hành Đại hội theo phương châm công khai, dân chủ về nội dung và nhân sự theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”, triệt để tiết kiệm, hiệu quả.
Đầu năm 1988, hầu hết các Công đoàn cơ sở đã tiến hành xong đại hội. Đến giữa năm 1988, Công đoàn cấp trên cơ sở đã tổ chức xong đại hội, tạo điều kiện cho Công đoàn tỉnh tổ chức đại hội.
- ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG LẦN THỨ IV VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 1988 – 1993:
ĐẠI HỘI IV:
Sau khi đã hoàn thành các nội dung văn kiện Đại hội lần IV, được các cấp Công đoàn trong tỉnh đóng góp, Ban soạn thảo sửa chữa nhiều lần trước khi trình Thường vụ Tỉnh ủy và Tổng Công đoàn Việt Nam. Được sự cho phép của Tổng Công đoàn Việt Nam và Thường vụ Tỉnh ủy Tiền Giang, Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang long trọng tổ chức tại Hội trường Ấp Bắc, trung tâm của thành phố Mỹ Tho, từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7 năm 1988.
Đại hội đã vinh dự đón tiếp các đồng chí trong Ủy viên Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam; đồng chí Huỳnh Văn Niềm, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Phan Minh Thanh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh; đồng chí Võ Đông Ba, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Kha, Trưởng ban Dân vận, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh; và các đồng chí lãnh đạo các Ban, ngành và đoàn thể.
Với tinh thần đổi mới, cởi mở, nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã tổng kết phong trào công nhân viên chức và Công đoàn của tỉnh trong nhiệm kỳ III (1983 – 1988) và đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ IV (1988 – 1993).

Báo cáo của Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh Khóa III được trình bày tại Đại hội, nêu rõ:
“Từ Đại hội Đại biểu Công đoàn tỉnh lần thứ III đến nay tròn 5 năm. Trong thời gian đó, Đảng, Nhà nước có nhiều Nghị quyết, chủ trương, chính sách cụ thể về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhằm từng bước ổn định sản xuất, đời sống nhân dân.
Song 5 năm qua, công nhân viên chức và nhân dân lao động đã trải qua nhiều thử thách và đang đứng trước những khó khăn gay gắt, nhất là sau khi có chủ trương tổng điều chỉnh Giá – Lương – Tiền làm cho sản xuất chậm phát triển, có nhiều rối ren… Cuộc sống của người lao động ngày càng căng thẳng hơn, ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, băn khoăn, lo lắng trước cuộc sống hiện tại, hoài nghi các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đề ra, trong việc tổ chức thực hiện. Diễn biến tình hình kinh tế xã hội từ ấy đến nay còn nhiều khó khăn và phức tạp, chiều hướng ngày xấu thêm.
Đại hội Công đoàn tỉnh lần này được tiến hành với tinh thần đổi mới và hành động theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI. Với thái độ trung thực và thẳng thắn, chúng ta đánh giá đúng những thành tích đã đạt được, nhìn thẳng vào sự thật, nghiêm khắc kiểm điểm, nhận ra những tồn tại yếu kém, phân tích những nguyên nhân khuyết điểm, rút ra những bài học kinh nghiệm để xác định đúng phương hướng nhiệm vụ tới, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để đưa phong trào công nhân viên chức và hoạt động công đoàn ngày càng tiến lên, đạt hiệu quả hơn” [10].
Sau khi nêu và đánh giá những thành tựu, nguyên nhân của những thành tựu và những yếu kém, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ IV (1988 – 1993) với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, là: “Ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Với một số chỉ tiêu phấn đấu như sau:
– Diện tích gieo trồng 101.000 ha.
– Sản lượng lương thực đạt từ 865.000 tấn đến 900.000 tấn.
– Tổng giá trị hàng công nghiệp 2.800.000.000 đồng (theo giá cố định năm 1982).
– Hàng xuất khẩu đạt 27.000.000 rúp/đô la.
– Tỷ lệ phát triển dân số hàng năm 2%.
Nhiệm vụ chung cho cả nhiệm kỳ được Đại hội đề ra với 4 nội dung được tóm tắt như sau:
Một: Ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật vào 5 chương trình kinh tế có mục tiêu của tỉnh.
Hai: Cùng với Nhà nước tổ chức chăm lo đời sống công nhân viên chức. Công đoàn tham gia đề xuất với cơ quan Nhà nước giải quyết việc làm, điều kiện sản xuất, bảo hộ lao động, bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân viên chức.
Ba: Tập trung tuyên truyền giáo dục công nhân viên chức quán triệt các Nghị quyết, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Trung ương và địa phương. Gắn liền với cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, bộ máy Nhà nước và làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Bốn: Tăng cường công tác củng cố, kiện toàn tổ chức công đoàn các cấp, chuyển hướng hoạt động Công đoàn đi sâu cơ sở, đi sát công nhân, cải tiến phương thức chỉ đạo để thu hút nhiều công nhân viên chức và đoàn viên tham gia vào hoạt động công đoàn.
Để thực hiện nhiệm vụ chung, Đại hội đề ra những nhiệm vụ cụ thể là:
– Vận động công nhân viên chức tham gia thực hiện cơ chế quản lý mới.
– Đẩy mạnh phong trào tiến quân vào khoa học kỹ thuật.
– Phát động mạnh mẽ phong trào triệt để tiết kiệm trong công nhân viên chức và hệ thống tổ chức Công đoàn.
– Tiếp tục giáo dục công nhân viên chức về tầm quan trọng và sự cần thiết phải tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
– Chăm lo đời sống, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân viên chức. Thu nhập của công nhân viên chức có thể sống được với mức tối thiểu.
– Ra sức xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác công đoàn.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết của Đại hội với nội dung về những nhiệm vụ, mục tiêu, biện pháp cụ thể của các cấp Công đoàn năm 1988 – 1993. Trong đó có mục tiêu: “Công đoàn phải tổ chức cho các đơn vị và cá nhân đăng ký thực hiện vượt mức kế hoạch Nhà nước hàng năm, có từ 80 – 90% đơn vị và từ 70 – 90% công nhân viên chức về trước kế hoạch”.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành nhiệm kỳ IV với 31 Ủy viên, trong đó có 9 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Thị Cúc được bầu giữ chức vụ Chủ tịch; đồng chí Lê Quốc Việt và đồng chí Nguyễn Bảo Long được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang nhiệm kỳ 1988 – 1993 (Vào tháng 12 năm 1991, đồng chí Huỳnh Xuân Việt, Bí thư Thị ủy Gò Công được điều động đến công tác tại Liên đoàn Lao động Tiền Giang. Ban Chấp hành bổ sung đồng chí Huỳnh Xuân Việt giữ chức vụ Phó Chủ tịch từ tháng 2 năm 1992) [11].
Đại hội đã bầu Đại biểu đi dự Đại hội Tổng Công đoàn Việt Nam. Sau Đại hội lần thứ IV, Tổng Công đoàn Việt Nam đổi tên thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Công đoàn cấp tỉnh, thành phố, huyện, thị cũng được đổi tên thành Liên đoàn Lao động tỉnh, thành, huyện, thị, v.v…
ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI IV ĐI VÀO CUỘC SỐNG:
Sau Đại hội lần IV, các cấp Công đoàn đi vào chấn chỉnh tổ chức, củng cố bộ máy, đẩy mạnh các hoạt động Công đoàn. Đặc biệt là sắp xếp lại tổ chức theo cơ chế quản lý mới. Các Ban chấp hành Công đoàn cơ sở tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện các nội dung của Nghị quyết Đại hội IV liên quan đến lĩnh vực hoạt động hoặc địa phương mình.
Tên gọi của tổ chức Công đoàn theo Điều lệ sửa đổi được thông qua tại Đại hội lần thứ VI Công đoàn Việt Nam vào ngày 24 tháng 10 năm 1988 là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (thay cho tên cũ Tổng Công đoàn Việt Nam), đối với Tiền Giang, tên gọi của tổ chức Công đoàn là Liên hiệp Công đoàn đổi thành Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang. Với cơ cấu tổ chức như sau:
Công nhân viên chức và người lao động Tiền Giang thực hiện Nghị quyết Đại hội Công đoàn nhiệm kỳ IV trong tình hình kinh tế – xã hội có nhiều khó khăn, diễn biến phức tạp. Nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, sự tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm cho tình hình kinh tế – xã hội diễn biến ngày càng phức tạp hơn. Ở nông thôn, việc tranh chấp ruộng đất liên tục xảy ra, từng lúc, từng nơi trở thành điểm nóng. Mặc dù Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh và các đoàn thể cố gắng giải quyết theo tinh thần Chỉ thị số 47 – CT/TW ngày 31 tháng 8 năm 1988 của Bộ Chính trị về việc “Giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất”, nhưng quần chúng vẫn chưa thỏa mãn, sự tranh chấp vẫn kéo dài.

Trong quá trình đổi mới, các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh phát triển và mở rộng. Năm 1989, nhiều xí nghiệp, hộ tư thương, cơ sở hợp tác xã mua bán, v.v… ra đời, đã ít nhiều tác động đến tư tưởng công nhân viên chức. Trong khi đó, các xí nghiệp quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn do thiếu vốn lưu động, thiếu tiền mặt, tín dụng ngân hàng lãi suất cao, định mức vòng quay hẹp, chi phí sản xuất lớn, giá thành cao, hàng tiêu thụ chậm, tồn kho nhiều. Năm 1989, đã có một số đơn vị phải ngừng sản xuất. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh bị cạnh tranh, một số phải chuyển hướng với phương thức khoán, nhưng hiệu quả rất thấp.
Từ năm 1989, hoạt động tín dụng đã có những biểu hiện không bình thường. Năm 1990, nhiều tín dụng mất khả năng chi trả cho khách hàng, tạo những phản ứng dây chuyền, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, đặc biệt đối với những người gom vốn gởi vào hợp tác xã tín dụng.
Bên cạnh đó, nhiều đơn vị tiến hành giảm biên chế, sắp xếp tổ chức, làm cho tư tưởng một bộ phận công nhân viên chức băn khoăn về việc làm, đời sống công nhân viên chức (kể cả Chủ tịch, Phó Chủ tịch Công đoàn cơ sở) cũng bị ảnh hưởng. Nhiều nơi giảm biên chế công nhân viên chức đến 50%. Nhiều đơn vị, ngân sách thiếu hụt không đủ trả lương, đơn vị nào cố gắng thì trả lương chậm. Một số ngành như Y tế, Giáo dục còn nợ lương công nhân viên chức. Thực tế ấy dẫn đến tình trạng giáo viên bỏ việc hoặc xin chuyển công tác ngày càng tăng.
Trước những khó khăn, thử thách mới, các cấp Công đoàn từng bước đổi mới phương pháp, hình thức hoạt động Công đoàn nhằm thu hút đông đảo công nhân viên chức tham gia các hoạt động Công đoàn.
Các Công đoàn cơ sở chú trọng đến đời sống công nhân viên chức, tìm mọi cách tháo gỡ khó khăn. Nhiều đơn vị sử dụng lực lượng lao động dôi dư tổ chức sản xuất, dịch vụ với nhiều hình thức khác nhau để tăng thu nhập như: ngành giáo dục tổ chức dạy thêm giờ, ngành y tế tổ chức khám bệnh ngoài giờ. Đối với những trường hợp giảm biên chế, Công đoàn tạo điều kiện cho bán căn-tin tại đơn vị, hoặc tham gia cùng chính quyền thực hiện tốt các chế độ chính sách cho công nhân viên chức.
Trong bước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, cùng với sự sắp xấp lại các cơ sở quốc doanh, cơ quan Nhà nước, tổ chức lại sản xuất là sự hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Giai cấp công nhân đang có sự biến đổi về cơ cấu, trước hết là cơ cấu ngành nghề và sự chuyển dịch công nhân viên chức sang thành phần kinh tế khác.
Trước những biến động của thế giới, sự tấn công nhiều phía của các thế lực thù địch, giai cấp công nhân Tiền Giang vững vàng, tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhanh chóng thích nghi với cơ chế kinh tế mới, tích cực tháo gỡ khó khăn, năng động, sáng tạo, góp phần tạo nên những thành tựu có ý nghĩa trong đời sống kinh tế – xã hội, góp phần giữ được sự ổn định về chính trị của tỉnh nhà.
Sự đóng góp của cán bộ, công nhân viên chức và người lao động Tiền Giang vào sự nghiệp xây dựng quê hương Tiền Giang được thể hiện rõ nhất ở sự đóng góp vào thành tựu của tỉnh nhà, đó là:
Sản lượng lương thực, kinh tế vườn, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm đều tăng, riêng sản lượng lương thực đạt 1.067.700 tấn (vượt chỉ tiêu hơn 167.000 tấn). Vùng Đồng Tháp Mười tiếp tục được mở ra và đi vào sản xuất có hiệu quả, trên 26.000 hộ nhận đất trong đó có 7.000 hộ định cư. Vùng ngọt hóa Gò Công đã phát huy tác dụng tốt, tăng diện tích sản xuất lên hơn 4.000 ha so với năm 1991, từ đó tạo thêm việc làm cho người lao động và cải thiện đời sống.
Trong lĩnh vực công nghiệp, các doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại theo Nghị định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, một số đã đi vào hoạt động theo phương án mới, có hiệu quả hơn trước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang phát triển, giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 1992 tăng 25,86% so với năm 1990. Phát triển thêm một số cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống, nhất là các công trình thùy lợi, giao thông… với vốn đầu tư xây dựng trong năm 1992 trên 39 tỷ đồng (thời giá năm 1992).
Hoạt động thương mại tăng khá nhanh, đáp ứng nhu cầu tiên dùng của nhân dân, giá cả thị trường đang đi dần vào ổn định.
Với nhịp độ phát triển khá nhanh trên các lĩnh vực kinh tế, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, năm 1992 tăng trên 9% so với năm 1991. Đây là lần đầu tiên tổng sản phẩm xã hội có sự tăng trưởng rõ rệt.
Cùng với nông dân, công nhân lao động và trí thức Tiền Giang đã đi đầu trong công cuộc đổi mới của tỉnh. Đã áp dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật mới vào sản xuất. Đặc biệt, khoa học kỹ thuật phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển nông nghiệp của tỉnh nhà.
Với kết quả đạt được trong năm 1992 trên lĩnh vực nông nghiệp đã thể hiện rõ nét tính liên minh công nông trong cơ chế mới. Công nhân lao động và cán bộ khoa học kỹ thuật trong các ngành sản xuất, dịch vụ, nghiên cứu phục vụ nông nghiệp đã bước đầu đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ, đáp ứng yêu cầu tại chỗ của người dân và sản xuất nông nghiệp, góp phần tăng nhanh nông sản hàng hóa, giải quyết tốt vấn đề lương thực cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Đồng thời, do tiếp cận với kinh tế thị trường, công nhân lao động đã rèn luyện cho mình một kỹ năng lao động mới, tiếp thu nhanh những kỹ thuật mới, từng bước nâng cao tay nghề, trình độ và năng suất lao động, đồng thời cũng xuất hiện sự khác biệt về khoảng cách thu nhập và đời sống.
Nền kinh tế thị trường đã tác động khá lớn đối với công nhân lao động. Do trải qua một thời gian dài trong cơ chế bao cấp, công nhân lao động càng bộc lộ những nhược điểm, đó là sự thụ động, lúng túng và có phần xa lạ với cạnh tranh; trình độ tay nghề, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, sức khỏe… chưa thích ứng với yêu cầu của công nghệ mới và sự đòi hỏi của thị trường sức lao động. Từ năm 1989 đến năm 1992 có trên 10.000 công nhân lao động trong khu vực quốc doanh và cơ quan Nhà nước phải nghỉ việc. Qua tổng kết việc thực hiện Quyết định 106/HĐBT, một bộ phận lớn người lao động đã thích nghi được với môi trường mới. Trong đó, 45% công nhân lao động chuyển sang nông nghiệp; 10% chuyển sang công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp; 10% chưa có việc làm đang gặp rất nhiều khó khăn; 20% có tay nghề cao, có việc làm ổn định, đời sống có khá hơn.
Năm 1992, qua một đợt điều tra xã hội học trong đội ngũ công nhân viên chức, cho thấy:
70% số công nhân viên chức đời sống bị thiếu hụt.
29% số công nhân viên chức có cuộc sống ổn định.
1% số công nhân viên chức đạt mức sống khá.
Một bộ phận trong số 70% công nhân viên chức có cuộc sống bị thiếu hụt dao động về tư tưởng và niềm tin bị giảm sút.
Một số công nhân viên chức đã chạy theo đồng tiền, lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý của Nhà nước, bất chấp luật pháp, tham nhũng, buôn lậu, sa đọa trong lối sống, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
Sự hình thành nền kinh tế thị trường làm cho các thành phần kinh tế phát triển nhanh chóng, với nhiều ngành nghề mới, trong lúc cơ chế quản lý chưa theo kịp, dẫn đến nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là khu vực sản xuất tư nhân điều kiện lao động còn rất xấu, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phát triển, chế độ bảo hộ lao động chưa được thực hiện cùng với các chế độ khác.
Ở vào thời kỳ đầu chuyển sang cơ chế thị trường, dù còn rất mới mẻ, hệ thống Công đoàn trong tỉnh đã nhạy bén trong việc vận động công nhân lao động phấn đấu thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của tổ chức Công đoàn, nhằm góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Đến giữa năm 1989, các Ban chấp hành Công đoàn cơ sở đều đã được củng cố. Tất cả các huyện, thị trong tỉnh và các ngành: Giao thông – Vân tải, Nông nghiệp, Thương nghiệp, Du lịch, Văn hóa – Thông tin … được chấn chỉnh, chủ động tổ chức tập huấn, bồi dững nghiệp vụ cho cán bộ công đoàn mới sau Đại hội Công đoàn các cấp không chờ kế hoạch bồi dưỡng của Công đoàn tỉnh.
Một trong những yếu tố để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang nhiệm kỳ IV là công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân viên chức và người lao động.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng luôn được Liên đoàn Lao động đặc biệt quan tâm. Trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường, đời sống của hầu hết công nhân viên chức chưa ổn định, số đông có tâm trạng lo lắng về việc làm, không có việc làm sẽ dẫn đến các hệ lụy khác: ốm đau thiếu thuốc thang, con cái dễ hư hỏng, tệ nạn xã hội gia tăng, bất công và nạn tham nhũng có cơ hội phát triển… Vì vậy, cần phải đổi mới công tác giáo dục, thông qua nhiều hình thức khác nhau để mang lại hiệu quả thiết thực.
Sau Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần IV, Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức nhiều cuộc họp, xác định tầm quan trọng của công tác giáo dục chính trị – tư tưởng, xem đây là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết. Các hình thức được triển khai như: thông tin bằng văn bản, tọa đàm, báo cáo thời sự, thi tìm hiểu lịch sử Đảng, tìm hiểu lịch sử Công đoàn, sinh hoạt câu lạc bộ, tổ chức tham quan di tích lịch sử…
Công đoàn các cấp đều dành kinh phí để đưa báo Đảng, báo Lao động đến cơ sở. Trong nhiệm kỳ 1988 – 1993, Công đoàn tỉnh đã đưa hơn 10.000 báo, tạp chí Công đoàn đến cán bộ Công đoàn các cấp. Ngoài ra, Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp với đài phát thanh, báo Ấp Bắc mở chuyên mục thông tin về phong trào Công nhân, hoạt động Công đoàn và các chế độ, chính sách liên quan đến người lao động.
Trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thể thao, nhân các ngày lễ lớn, nhiều nơi kết hợp với ngành Văn hóa – Thông tin, ngành Thể dục – Thể thao tổ chức hội diễn văn nghệ về đề tài Công nhân, thi đấu giao hữu bóng chuyền, bóng đá, bóng bàn, cầu lông, kéo co, nấu ăn, làm bánh, chưng nghi, v.v… thu hút ngày càng đông đảo công nhân viên chức tham gia.
Đặc biệt, trong năm 1990 kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – “Nhà văn hóa lớn, anh hùng giải phóng dân tộc”, Công đoàn tỉnh đã tổ chức các phong trào văn hóa – văn nghệ, thể dục – thể thao rầm rộ trong công nhân viên chức và người lao động. Bên cạnh đó, Công đoàn tỉnh tổ chức tuyên truyền, báo cáo thời sự về “Bác Hồ vị lãnh tụ vĩ đại, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”, “Thế giới với Bác Hồ” cho hơn 80 báo cáo viên các cấp Công đoàn, sau đó các cấp Công đoàn huyện, thị, ngành báo cáo cho hơn 7.500 lượt công nhân viên chức và người lao động. Công đoàn tỉnh còn tổ chức cuộc thi tìm hiểu về Bác Hồ để tuyển chọn bài tham dự cuộc thi toàn quốc.
Năm 1990, Liên đoàn Lao động tỉnh triển khai Nghị quyết 8A và Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI và chương trình hành động của Tỉnh ủy Tiền Giang trong hệ thống Công đoàn, với các hình thức phong phú như: Liên đoàn Lao động huyện triển khai tập trung, Công đoàn cơ sở trực thuộc ngành triển khai theo ngành; Công đoàn thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh tự lực triển khai, nơi nào có động đoàn viên Công đoàn thì Liên đoàn Lao động tỉnh hỗ trợ triển khai. Qua học tập, quán triệt Nghị quyết 8A, đã khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Công sản Việt Nam, ổn định tình hình chính trị, không đa nguyên, đa đảng. Nghị quyết 8B cho công nhân viên chức và người ao động thấy được tầm quan trọng của công tác dân vận trong tình hình mới, tạo niềm tin về sự gắn bó giữa Đảng và nhân dân. Đội ngũ cán bộ Công đoàn được xác định vị trí và trách nhiệm của mình đối với phong trào công nhân và người lao động, giảm bớt băn khoăn lo lắng trước tình hình biến động của phe xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Sau khi triển khai Nghị quyết 8A và Nghị quyết 8B, các cấp Công đoàn và đoàn viên công nhân viên chức đồng tình hưởng ứng và tham gia kế hoạch phòng thủ cơ bản của tỉnh. Nhiều đơn vị, cơ quan, xí nghiệp phối hợp với chính quyền củng cố, xây dựng các đội tự vệ cơ quan, thực hiện canh gác, trực cơ quan nhằm bảo vệ an toàn cơ quan, xí nghiệp, xây dựng bổ sung nội quy và xây dựng phương án phòng thủ cơ quan. Trong đợt diễn tập phòng thủ của tỉnh, có hơn 200 công nhân viên chức tham gia diễn tập khu vực phòng thủ.
Để phong trào công nhân viên chức và người lao động đóng góp sổ vàng, quỹ phúc lợi xây nhà tình nghĩa, các công trình công cộng, ủng hộ Cu ba, ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, Công đoàn các cấp đã tích cực tuyên truyền phát động tạo sự đồng thuận trong công nhân viên cức và người lao động. Trong nhiệm kỳ 1988 – 1993, công nhân viên chức Tiền Giang đã đóng góp quỹ nhân dân bảo trợ xã hội hơn 280.000.000 đồng; đóng góp mua sổ tiết kiệm tặng thương binh, gia đình liệt sĩ 20.500.000 đồng; đóng góp giúp nhân dân Cu-Ba 38.115.000 đồng; đóng góp giúp nhân dân Sơn La bị thiên tai 12.435.000 đồng; cứu trợ đồng bào lũ lụt 19.400.000 đồng; đóng góp các hoạt động xã hội khác 10.000.000 đồng (thời giá năm 1992). Một số đơn vị còn nhận đỡ đầu nuôi dưỡng cha mẹ, con em liệt sĩ, thương binh có hoàn cảnh khó khăn.
Thông qua công tác giáo dục và hoạt động văn hóa, thể thao, Công đoàn đã góp phần nâng cao giác ngộ cách mạng, nhận thức chính trị cho công nhân viên chức và người lao động. Trong nhiệm kỳ 1988 – 1993, công nhân viên chức và người lao động đã được quán triệt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Đặc biệt, trong năm 1990, Công đoàn đã phát hành 1.500 cuốn luật Công đoàn, 159 đề cương hướng dẫn và tổ chức họp báo giới thiệu luật Công đoàn với các cơ quan chức năng: phát thanh, báo chí, pháp luật để phối hợp tuyên truyền, triển khai luật Công đoàn rông rãi trong công nhân viên chức và người lao động để nắm được tình hình, nhiệm vụ kinh tê – xã hội của địa phương, đơn vị, ra sức thi đua lao động sản xuất, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Cùng với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền vận động công nhân viên chức thực hiện đường lối, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, Công đoàn các cấp vận động công nhân viên chức cùng các cơ quan, đơn vị hàng năm tổ chứ Đại hội công nhân viên chức, bàn nội dung, biện pháp thi đua, giải quyết việc làm, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, nâng cao đời sống cho công nhân viên chức. Hàng năm có trên 70% đơn vị sản xuất kinh doanh và trên 50% đơn vị hành chánh sự nghiệp tổ chức Đại hội hoặc Hội nghị công nhân viên chức, ở các cơ quan, xí nghiệp tiến hành bầu Hội đồng xí nghiệp, hướng dẫn thảo luận phương án sản xuất, tháo gỡ những khó khăn về tiền vốn, về phương thức sản xuất kinh doanh, liên doanh, bảo đảm đúng hướng. Tham gia định ra các chính sách xã hội, lao động tiền lương, điều chỉnh kịp thời trong điều kiện kinh tế còn khó khăn, chưa ổn định. Đối với các đơn vị hành chánh sự nghiệp, tổ chức Hội nghị công nhân viên chức kiểm điểm việc thực hiện hợp đồng liên tịch 6 tháng đầu năm và bổ sung những vấn đề cần thiết cho 6 tháng cuối năm.
Tại các Đại hội hoặc Hội nghị công nhân viên chức, Công đoàn phối hợp với lãnh đạo chuyên môn đã phát động phong trào thi đua lao động sản xuất theo ngành nghề của từng cơ quan, đơn vị. Nhiều phong trào thi đua như: “Sản xuất kinh doanh giỏi”, “Thi đua Hai tốt” của ngành Giáo dục; “ Thi đua nâng cao chất lượng công trình” của ngành Xây dựng, “Thi đua nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; nâng cao tinh thần thái độ phục vụ, giảm phiền hà cho bệnh nhân” của ngành Y tế. bên cạnh đó,các cuộc thi: “Lao động sáng tạo”, “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, … đều được Công đoàn các cấp động viên công nhân viên chức hưởng ứng. Phong trào “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” được khơi dậy. Từ năm 1988 đến năm 1990 đã cấp 33 bằng “Lao động sáng tạo” cho các cá nhân có sáng tạo đem lại hiệu quả cao trong sản xuất, kinh doanh.
Phong trào thi đua qua đó luôn được khơi dậy, tạo ra không khí lao động sôi nổi trong công nhân viên chức. Mỗi năm có hơn 700 công nhân viên chức đạt danh hiệu “Lao động giỏi”, hơn 1.000 các bộ Công đoàn và người lao động được Liên đoàn Lao động tỉnh tặng Bằng khen, riêng ngành Giáo dục từ năm học 1988 – 1989 đến năm học 1992 – 1993 mổi năm có 532 Bằng khen. Số đơn vị đạt danh hiệu “An toàn lao động” năm 1988 có 16, năm 1989 có 21, năm 1990 có 25, năm 1991 có 30, từ năm 1992 do thực hiện Pháp lệnh Bảo hiểm lao động nên không còn chấm điểm. Số vụ tai nạn lao động cũng được giảm dần: năm 1988 có 12 vụ, năm 1989 có 10 vụ, năm 1991 có 7 vụ, năm 1991 có 10 vụ, năm 1992 có 6 vụ.
Trong nhiệm kỳ Công đoàn khóa IV, vấn đề nổi cộm là tinh giản biên chế công nhân viên chức và sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh theo tinh thần Quyết định số 176 – QĐ/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Đây là vấn đề Công đoàn các cấp quan tâm nhất trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Trong quá trình sắp xếp lại lao động sản xuất và biên chế, hơn 10.000 công nhân viên chức phải nghỉ việc, phần lớn những người này chưa có việc làm ổn định. Với trách nhiệm của mình, Công đoàn tham gia xét duyệt và kiểm tra việc chi trả trợ cấp theo đúng chính sách cho anh, chị, em công nhân viên chức. Nhiều Công đoàn còn đề xuất với chính quyền trích quỹ phúc lợi trợ cấp thêm cho công nhân. Một số đơn vị cố gắng tìm việc làm mới cho số công nhân viên chức dư thừa bằng cách sản xuất phụ, hay giới thiệu đến đơn vị sản xuất kinh doanh ở các thành phần kinh tế khác. Cũng chính vì vậy, đã tạo điều kiện cho lực lượng lao động ngoài quốc doanh không ngừng tăng lên. Sau khi có luật Đầu tư và Nghị quyết số 16 – NQ/BCT, ngày 15 tháng 7 năm 1988 của Bộ Chính trị về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhiều thành phần kinh tế trong tỉnh đã tích cực tham gia sản xuất, kinh doanh, nhiều ngành nghề phát triển đa dạng, phong phú, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ở khu vực sản xuất kinh doanh, công đoàn các cấp tham gia vào quá trình sắp xếp lại lao động và sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế quản lý mới phù hợp với nền kinh tế thị trường. Nhiều công ty, xí nghiệp chuyển biến tốt, công nhân lao động nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới, nghiên cứu nhiều sản phẩm mới có chất lượng, mẫu mã đẹp, như thuốc chữa bệnh , da thuộc, quần áo may sẵn, trái cây đóng hộp, v.v…
Ngoài việc quan tâm đến giải quyết chế độ, chính sách cho công nhân viên chức phải tinh giản biên chế; đối với công nhân viên chức đang làm việc, Công đoàn cùng chính quyền tìm thêm thu nhập để lập quỹ Công đoàn, quỹ phúc lợi, quỹ tương trợ xã hội, quỹ trợ vốn, nhằm giải quyết khó khăn như phụ cấp ăn trưa, thưởng A, B,C, trợ cấp đột xuất, giúp vốn làm kinh tế gia đình. Ngoài ra, Công đoàn các cấp kết hợp với chính quyền thường xuyên tổ chức luyện tay nghề, thi thợ giỏi để nâng bậc thợ hàng năm theo quy định, nâng mức thu nhập hợp lý trong quá trình lao động, sản xuất cho công nhân viên chức.
Công đoàn còn tham gia với các ngành liên quan và Hội đồng phân phối nhà ở giải quyết nhà, đất cho công nhân viên chức trên nguyên tắc dân chủ, công khai, đảm bảo công bằng trong phân phối nhà ở.
Để nâng cao đời sống công nhân viên chức trong tình hình giá cả biến động, lạm phát tăng nhanh, tiền lương thấp không đảm bảo đời sống, nhiều nơi trả lương chậm từ 2 đến 3 tháng, các cấp Công đoàn đã tổ chức vận động các nguồn gây quỹ sản xuất, tự túc, phúc lợi … trợ cấp thêm cho cán bộ, công nhân viên chức từ 10.000 đến 20.000 đồng/ tháng. Nhiều Công đoàn cơ sở làm tốt như Bênh viện Đa khoa, xí nghiệp Giao thông vận tải, Thủy lợi, Xây dựng, Xăng dầu, v.v…
Cùng với việc giải quyết một phần khó khăn về đời sống của công nhân viên chức, Công đoàn các cấp còn chú trọng đến việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động cho công nhân viên chức. Nhiều cơ sở quản lý tốt, có điều kiện tổ chức cho công nhân lao động đi nghỉ mát, tham quan du lịch như Công đoàn thành phố Mỹ Tho, Công đoàn ngành Giáo dục, Công đoàn huyện Cai Lậy, v.v… Trong nhiệm kỳ 1988 – 1993, Liên đoàn Lao động tỉnh đã cấp trên 17.000 phiếu nghỉ ngơi, du lịch và bồi dưỡng tại chỗ cho công nhân lao động.
Trong công tác bảo hộ lao động, các cấp Công đoàn đã tích cực chủ động phối hợp với các ngành triển khai Pháp lệnh Bảo hộ lao động cho công nhân viên chức và người lao động. Phong trào bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động được duy trì. Có 100% đơn vị sản xuất kinh doanh lập hồ sơ và kiểm tra vệ sinh công nghiệp, vệ sinh môi trường. Nhiều xí nghiệp quốc doanh quan tâm trang bị kỹ thuật, cấp phát bảo hộ lao động cho công nhân. Ban chỉ đạo Thông tư 08 Liên Bộ của tỉnh mở lớp tập huấn công tác bảo hộ lao động cho cán bộ các đơn vị trực thuộc và chỉ đạo thực hiện các kế hoạch về công tác bảo hộ lao động. Từ năm 1990, sau khi mở lớp tập huấn về nghiệp vụ bảo hộ lao động cho 50 học viên, Liên đoàn Lao động tỉnh tham gia kiểm tra bảo hộ lao động từ 40 đến 64 đơn vị/ năm. Số đơn vị được khen thưởng về bảo hộ lao động tăng dần: năm 1988 có 7 đơn vị, năm 1989 có 11 đơn vị, năm 1990 có 15 đơn vị, năm 1991 có 18 đơn vị.
Thực hiện đường lối đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương thức hoạt động Công đoàn, tập trung xây dựng Công đoàn vững mạnh, ngày 14 tháng 3 năm 1989, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ra Chỉ thị số 17/CT – TLĐ về xây dựng Công đoàn cơ sở với 5 nội dung: “Tập hợp và vận động công nhân, lao động tham gia các phong trào nhằm tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh; Cùng các cơ quan quản lý giải quyết công ăn việc làm; Đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực; Xây dựng quy chế phối hợp với chính quyền; Thu, chi tài chính và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội đúng chế độ”. Thực hiện Chỉ thị này, Công đoàn cơ sở được tự chủ hoạt động trên các lĩnh vực tham gia quản lý kinh tế, quản lý đơn vị; thực hiện vai trò, trách nhiệm của Công đoàn cơ sở trong đổi mới cơ chế quản lý; chủ động quyết định nội dung, phương thức hoạt động của Công đoàn cơ sở; quyền tự chủ về cán bộ; quản lý tài chính và bảo hiểm xã hội.
Hàng năm, Công đoàn tỉnh tổ chức Hội nghị, tọa đàm, đúc kết kinh nghiệm về xây dựng Công đoàn vững mạnh, đồng thời đề ra kế hoạch chỉ đạo và hướng dẫn về tiêu chuẩn, thang điểm để cơ sở thực hiện. Cuối năm, Công đoàn tỉnh xuống cơ sở khảo sát, kiểm tra, hoặc Công đoàn cơ sở tự kiểm tra, đánh giá rồi gởi lên Công đoàn tỉnh xét thi đua.
Ngoài ra, các Công đoàn ngành, huyện kiểm tra chéo lẫn nhau để việc đánh giá được xác thực hơn. Hàng năm, Công đoàn tỉnh mở lớp tập huấn cho cán bộ Công đoàn cơ sở; tập trung củng cố các Ban cán sự cấp huyện, thị trấn và hợp tác xã, phát triển đoàn viên mới. Năm 1992, tổng số đoàn viên Công đoàn sau khi tinh giản biên chế và phát triển thêm đoàn viên có 27.713 người, trong tổng số 32.224 công nhân viên chức, chiếm tỷ lệ 86%.
Để củng cố và kiện toàn bộ máy và hệ thống của tổ chức Công đoàn tỉnh, trong những năm của nhiệm kỳ Khóa IV, Liên đoàn Lao động tỉnh xác định lại cơ cấu tổ chức của Công đoàn và đổi mới bộ máy Công đoàn tỉnh, từng bước hoàn thiện dần các hoạt động của Công đoàn phù hợp với tình hình mới, đó là:
– Đẩy mạnh công tác xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh theo Chỉ thị 17 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
– Thành lập các Công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh, Công đoàn cơ sở Khối và Công đoàn cơ sở 2 cấp.
– Tổ chức dịch vụ du lịch, tận dụng khai thac nhà nghỉ, nhà văn hóa để bổ sung kinh phí hoạt động cho Công đoàn.
Từ giữa năm 1989, sau khi có Chỉ thị 17 của Tổng Liên đoàn Lao động, Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang khẩn trương xây dựng Công đoàn cơ sở, nhằm phát huy quyền tự chủ của Công đoàn cơ sở. Ở hầu hết các ngành, xí nghiệp, hợp tác xã đều được thành lập Công đoàn cơ sở. Các ngành thành lập Công đoàn cơ sở 2 cấp. Năm 1989 cả tỉnh có 703 Công đoàn cơ sở, năm 1990 có 729 Công đoàn cơ sở, năm 1991 có 733 Công đoàn cơ sở, năm 1992 do một số cơ sở kinh tế giải thể nên chỉ còn 714 Công đoàn cơ sở.
Thực hiện chủ trương của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đa dạng hóa các loại hình nhằm tập hợp đông đảo công nhân lao động trong các thành phần kinh tế vào tổ chức Công đoàn, nhiệm kỳ 1988 – 1993, Công đoàn thành lập một số Công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh như: Nghiệp đoàn xe xích lô, khuân vác; hợp tác xã may Phục Hưng, Cơ khí Bảo Định thành phố Mỹ Tho, nghiệp đoàn Xe và Đò máy Gò Công Tây… Tuy nhiên, quy mô phát triển còn chậm, nội dung hoạt động còn nghèo nàn và lúng túng, cần phải có thời gian để hoàn thiện nội dung hoạt động.
Nhờ đổi mới phương thức hoạt động Công đoàn, chất lượng và số lượng Công đoàn vững mạnh ngày càng được tăng lên. Năm 1989 có 18% số công đoàn cơ sở đạt vững mạnh; năm 1990, con số này là 32%; năm 1991 lên 40%; năm 1992 lên 42%.
Để tạo nguồn vốn bổ sung cho ngân sách, từng bước tháo gỡ khó khăn về đời sống, Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức các dịch vụ du lịch với các tuyến trong và ngoài tỉnh, khai thác nhà nghỉ Công Đoàn, mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội. Các cấp Công đoàn vận dụng mặt bằng tổ chức căn-tin, tổ chức bếp ăn tập thể, xây dựng quỹ phúc lợi, trợ cấp khó khăn thường xuyên hoặc đột xuất, thực hiện các chính sách đối với công nhân viên chức và người lao động như thực hiện tốt việc chi trả kịp thời, đúng đối tượng cho các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn, tổ chức cho công nhân viên chức và người lao động đi tham quan, nghỉ mát ở các nhà nghỉ Công đoàn tỉnh bạn như Đà Lạt, Nha Trang, Huế,v.v…
Lực lượng nữ công nhân viên chức chiếm số lượng khá đông. Năm 1988 có 22.126 nữ trong tổng số 45.519 công nhân viên chức; năm 1992 có 16. 312 nữ trong tổng số 32.224 công đoàn viên. Do đó, nữ công nhân viên chức đóng vai trò không nhỏ trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của cơ quan, đơn vị, xí nghiệp. Ban nữ công Liên đoàn Lao động tỉnh và Ban nữ công Công đoàn các cấp đã vận động nữ công nhân viên chức hưởng ứng các phong trào “Người Phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (sau đổi thành phong trào “Giỏi việc nước đảm việc nhà”, phong trào “Dân số, kế hoạch hóa gia đình”, v.v…
Trong nhiệm kỳ Công đoàn khóa IV, theo tổng kết cho thấy tỷ lệ sinh đẻ hàng năm được giảm dần: Năm 1988, tỷ lệ sinh đẻ 2,5%; Năm 1989: 2,3%; Năm 1990: 2,4%; Năm 1991: 2,3%; Năm 1992: 2%.
Tỷ lệ nữ áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình hàng năm được tăng lên: Năm 1988, tỷ lệ áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình là 29,3%; Năm 1989: 31,2%; Năm 1990: 32,4%; Năm 1991: 32,5%; Năm 1992: 33,6%.
Trong 5 năm (1988 – 1993) phong trào nữ công nhân viên chức thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, Liên đoàn Lao động tỉnh đã khen thưởng 7 tập thể đạt 3 dứt điểm, 382 cá nhân thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, 6 cán bộ vận động tốt phong trào kế hoạch hóa gia đình. Qua các phong trào đã động viên tinh thần nữ công nhân viên chức vươn lên khắc phục khó khăn, sắp xếp gia đình để vừa nuôi con khỏe, dạy con ngoan, vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của mình. Năm 1992, Ban Nữ công Liên đoàn Lao động tỉnh đẩy mạnh 2 cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” và “ Hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học”. Từ đó chị em càng có điều kiện công tác và xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc.
X X
X
Với nhiệm kỳ IV Công đoàn tỉnh Tiền Giang, giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn tỉnh đã vượt qua một chặng đường khó khăn, thử thách với nhiều bỡ ngỡ ban đầu trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Thực tế đã chứng minh sự nỗ lực vươn lên khắc phục khó khăn của đông đảo công nhân, viên chức và người lao động tỉnh Tiền Giang.
Những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 tình hình kinh tế – xã hội có những bước chuyển động rõ rệt. Đó là sự hình thành nền kinh tế thị trường, kinh tế quốc doanh bước đầu chậm thay đổi nên kém hiệu quả, hơn 10.000 công nhân viên chức trong hệ thống kinh tế quốc doanh phải chuyển sang hoạt động ở môi trường khác, các thành phần kinh tế phát triển nhanh chóng, Công đoàn cần phải thay đổi phương thức hoạt động để phù hợp với tình hình mới.
Đặc biệt, năm 1992, tổng sản phẩm xã hội tăng 9% so với năm 1991. Thành tựu có ý nghĩa lớn là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp trên 5 tiểu vùng kinh tế có sự chuyển biến rõ rệt. Sản lượng lương thực đạt trên 1.000.000 tấn (vượt kế hoạch trên 100.000 tấn), trở thành tỉnh có sản lượng lương thực trên 1 triệu tấn. Vùng Đồng Tháp Mười được mở ra. Lần đầu tiên trong lịch sử, vùng Đồng Tháp Mười được khai thác với quy mô lớn. Trên vùng đất Đồng Tháp Mười thuộc địa phận Tiền Giang đã có hơn 26.000 hộ nhận đất, trên 7.000 hộ đã định cư, làm thay đổi bộ mặt của một vùng đất hoang hóa, tạo thêm việc làm cho hàng vạn lao động.
Trong lĩnh vực công nghiệp, các doanh nghiệp Nhà nước đã được sắp xếp lại. Trị giá sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 1992 tăng 25,86% so với năm 1991, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất và đời sống được tốt hơn. Hoạt động thương mại có sự khởi sắc, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Trong bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường, công nhân lao động và trí thức Tiền Giang đã đi đầu trong công cuộc đổi mới, phục vụ cho sự phát triển khá cao của nông nghiệp tỉnh nhà, thể hiện rõ nét tính liên minh công nông trong cơ chế mới.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường đã tác động khá mạnh đối với công nhân lao động, làm bộc lộ những yếu kém, thụ động của công nhân lao động vốn hình thành trong thời kỳ bao cấp kéo dài; lúng túng, xa lạ với sự cạnh tranh trong thời kỳ mới, theo cơ chế thị trường.
Những khó khăn do chuyển đổi cơ chế phải sắp xếp lại sản xuất kinh doanh, sắp xếp lại lao động, nhiều đơn vị tỏ ra lúng túng khi một số người lao động buộc phải nghỉ việc, hoạt động sản xuất kinh doanh chậm chuyển đổi theo yêu cầu của sự phát triển, nhiều công nhân viên chức và người lao động không yên tâm.
Công đoàn còn lúng túng trong việc thực hiện chức năng giáo dục, chưa thu hút được đông đảo công nhân lao động hưởng ứng các phong trào hành động do Công đoàn đề xướng. Qua cuộc điều tra xã hội trong công nhân viên chức được Liên đoàn Lao động thực hiện năm 1992 cho thấy:
– Có 35% công nhân viên chức cho rằng Công đoàn là cần thiết nhưng chưa gắn bó;
– Có 29% cho rằng Công đoàn đã phát huy tốt.
– Có 49% cho rằng Công đoàn mới phát huy được một phần.
– Có 10% cho rằng Công đoàn chưa phát huy được gì.
Thực tế ấy đặt ra cho Công đoàn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu và đổi mới để đưa hoạt động Công đoàn phù hợp với người lao động hơn.
Chặng đường 5 năm (1988 – 1993) là chặng đường nhiều thử thách, những gì đạt được của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ đầu công cuộc đổi mới thực sự là những kinh nghiệm quý báu và là những yếu tố quan trọng khẳng định sự phát triển kinh tế – xã hội, với mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh”.
III. ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG LẦN V VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 1993 – 1998:
BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Vào cuối nhiệm kỳ IV Công đoàn tỉnh Tiền Giang, thế giới đánh dấu sự tan rã trên thực tế của Liên Xô, một bi kịch chính trị làm chấn động và bàng hoàng dư luận tiến bộ trên thế giới, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa. Đế quốc Mỹ có thêm điều kiện tăng cường chống lại các nước xã hội chủ nghĩa còn lại là Việt Nam, Cu Ba, Trung Quốc, Triều Tiên, Lào…
Đối với nước ta, đế quốc Mỹ hỗ trợ cho bọn phản động lưu vong người Việt gây bạo loạn lật đổ, thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thảo ra kế hoạch xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong 7 năm (1991 – 1997). Trong những năm 1992 – 1993, có nhiều vụ lộn xộn mang tính chất bạo loạn dưới hình thức kích động biểu tình của nông dân đòi ruộng đất, kích động giới Phật tử chống chính phủ.
Cuối tháng 6 năm 1991, Đại hội VII của Đảng, một Đại hội của Trí tuệ – Đổi mới – Dân chủ – Kỷ cương – Đoàn kết đã thành công tốt đẹp. Đại hội khẳng định: “Nhờ những thành tựu bước đầu rất quan trọng của hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã đứng vững, và chúng ta tiếp tục đi lên”. Đại hội cũng đặt ra yêu cầu: “Điều cơ bản bảo đảm cho chúng ta vững bước đi lên, không để cho mình bị chìm ngập trong khó khăn là một mặt, Đảng phải có đường lối chính trị đúng, trên cơ sở đó tập hợp đoàn kết và phát huy được sức mạnh của toàn dân; mặt khác Đảng phải trong sạch vững mạnh có sức chiến đấu cao”.
Ở trong tỉnh, sau Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ IV, kinh tế trong tỉnh đã có sự phát triển rõ rệt, lần đầu tiên trong lịch sử Tiền Giang đã vướt qua 1 triệu tấn lương thực, các chương trình “Ngọt hóa Gò Công” và “Khai hoang Đồng Tháp Mười” đã mang lại những hiệu quả to lớn và thiết thực.
Phong trào công nhân viên chức và người lao động trong những năm 1988 – 1993 thu được nhiều thắng lợi, đạt được những mục tiêu do Đại hội IV Công đoàn tỉnh Tiền Giang đề ra.
ĐẠI HỘI V:
Từ đầu năm 1993, không khí chuẩn bị cho Đại hội lần V của Công đoàn Tiền Giang trở nên ráo riết và sôi nổi. Tiểu ban nội dung dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ và Ban tổ chức Đại hội làm việc ngày đêm để kịp lấy ý kiến đóng góp từ các Công đoàn cơ sở, Công đoàn huyện, Công đoàn ngành, v.v.. nhằm sửa chữa, bổ sung, hoàn chỉnh văn kiện, tổng kết và rút ra những kết luận về tổ chức và hoạt động Công đoàn trong cơ chế kinh tế mới, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và chương trình hành động của Công đoàn trong nhiêm kỳ mới (1993 – 1998).
Trong thời gian chuẩn bị Đại hội, các cấp Công đoàn phát động các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần thứ V và tiến hành Đại hội tại các Công đoàn cơ sở đã hết nhiệm kỳ. Qua Đại hội Công đoàn các cấp, Ban Chấp hành và Ủy ban Kiểm tra Công đoàn các cấp tiếp tục củng cố, kiện toàn, bổ sung, thay đổi trên 50% Chủ tịch Công đoàn ngành, trên 60% Ủy viên Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở các cấp trực thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh là những thành viên mới, đa số thành viên tuổi còn trẻ, có năng lực, nhiệt tình, được quần chúng tín nhiệm.
Về Công đoàn tỉnh, sau khi được góp ý nhiều lần và được chỉnh sửa, văn kiện Đại hội V Công đoàn Tiền Giang được hoàn thiện. Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tiền Giang và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ban Thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần thứ V được tiến hành từ ngày 15 đến ngày 16 tháng 6 năm 1993 tại hội trường Ấp Bắc, thuộc khu vực trung tâm của thành phố Mỹ Tho.
Đại hội đã vinh dự được đón tiếp các đồng chí đại diện Ban Thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; đồng chí Huỳnh Văn Niềm, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Tiền Giang; đồng chí Võ Văn Hai, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh; đồng chí Phan Minh Thanh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh; các đồng chí đại diện các ngành trong tỉnh; các đồng chí đại diện cho các Liên hiệp Công đoàn tỉnh bạn.
Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh, thay mặt cho Ban chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh trình bày báo cáo về tình hình công nhân lao động và hoạt động Công đoàn khóa IV và mục tiêu, nhiệm vụ chương trình hành động cũa Công đoàn nhiệm kỳ 1993 – 1998. Báo cáo nêu những thành tựu, những yếu kém tồn tại và nguyên nhân, và rút ra: “Trong bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường, giai cấp công nhân đã có những biến đổi quan trọng, không chỉ ngoài sự biến đổi về cơ cấu, mà còn đang diễn ra quá trình biến đổi sâu sắc về nếp suy nghĩ, phong cách làm việc, lối sống. Nói chung, giai cấp công nhân và người lao động nhạy cảm với cái mới, vượt qua những thử thách, xứng đáng với vai trò lịch sử của mình trong giai đoạn mới của cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Báo cáo xác định mục tiêu: “Là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và những người lao động, hoạt động Công đoàn vừa góp phần đáp ứng những yêu cầu, lợi ích thiết thân của công nhân lao động, vừa phải lôi cuốn, động viên công nhân lao động phấn đấu cho sự ổn định và phát triển đất nước “dân giáu nước mạnh, xã hội văn minh”, đây chính là mục tiêu phấn đấu của giai cấp công nhân và Công đoàn”.
Về nhiệm vụ của Công đoàn trong nhiệm kỳ 1993 – 1998, báo cáo nêu 5 nhiệm vụ chính, đó là:
– Một: Đổi mới tổ chức, tập hợp lực lượng lao động ở các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vào tổ chức Công đoàn, nghiệp đoàn; nâng cao năng lực hoạt động và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ công đoàn.
– Hai: Đổi mới công tác giáo dục, vận động công nhân lao động đi đầu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân và tần lớp trí thức vững mạnh làm nền tảng chính trị của địa phương.
– Ba: Nâng cao hiệu quả tham gia xây dựng và giám sát kiểm tra việc thực hiện chính sách, bảo vệ lợi ích người lao động của công nhân lao động và lợi ích của Nhà nước.
– Bốn: Tăng cường và đa dạng hóa các hoạt động xã hội, tổ chức cho quần chúng giúp nhau giải quyết khó khăn trong đời sống hàng ngày; coi việc chăm lo bảo vệ lợi ích người lao động là nhiệm vụ trung tâm của Công đoàn.
– Năm: Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế tạo thêm nguồn tài chánh cho hoạt động Công đoàn.
Đại hội đề ra 4 chương trình hành động, gồm:
– Một: Chương trình xây dựng Công đoàn cơ sở và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Công đoàn.
– Hai: Chương trình phát triển các hoạt động xã hội tham gia giải quyết việc làm, chăm lo đời sống công nhân lao động.
– Ba: Chương trình đổi mới công tác tuyên truyền – giáo dục của Công đoàn.
– Bốn: Chương trình hoạt động kinh tế tạo thêm nguồn tài chánh cho hoạt động Công đoàn.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 28 Ủy viên, Ban Chấp hành đã bầu 9 Ủy viên trong Ban Thường vụ, đồng chí Huỳnh Xuân Việt được bầu giữ chức vụ Chủ tịch , đồng chí Lê Quốc Việt được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch Liên Đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang nhiệm kỳ 1993 – 1998 [12].
Đại hội lần thứ V Công đoàn tỉnh Tiền Giang thành công tốt đẹp, đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động Công đoàn của thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa tỉnh nhà. Đây là Đại hội có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu bước chuyển mới của tổ chức Công đoàn Tiền Giang trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, lực lượng giữ vai trò nòng cốt trong khối liên minh công nhân – nông dân – trí thức.
ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI V VÀO CUỘC SỐNG:
Để Nghị quyết Đại hội V Công đoàn Tiền Giang đi vào cuộc sống, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động Tiền Giang chủ trương cho các cấp Công đoàn trong tỉnh nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội Tỉnh Đảng bộ Tiền Giang lần thứ V, Nghị quyết Đại hội VII Công đoàn Việt Nam và Nghị quyết Đại hội V Công đoàn Tiền Giang. Đợt nghiên cứu, quán triệt nội dung các Nghị quyết của Trung ương và địa phương đã tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân viên chức và người lao động trong tỉnh nhận thức sâu sắc hơn về nhu cầu và tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, trong đó có địa phương Tiền Giang, nhiệm vụ của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới là “Vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ lợi ích công nhân viên chức lao động”.
Bằng sự nỗ lực, sự phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, công nhân viên chức và người lao động Tiền Giang đã đóng góp vào sự nghiệp chung bằng những thành tựu đáng trân trọng. Trong 5 năm (1993 – 1988), tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, công nhân viên chức và người lao động Tiền Giang đã khai thác mọi tiềm năng sẵn có của địa phương, tạo sự tăng trưởng khá ổn định, cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng không ngừng được nâng lên. Các doanh nghiệp quốc doanh từng bước ổn định và hoạt động có hiệu quả, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp tục phát triển.
Tổng sản phẩm quốc nội của tỉnh (GDP) tăng bình quân 12,88% năm. Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, riêng sản lượng lương thực đạt mức 1.067.200 tấn năm 1992, đến năm 1997 đã tăng lên hơn 1.300.000 tấn.
Chương trình “Ngọt hóa Gò Công” đã được giải quyết cơ bản, diện tích canh tác lúa 3 vụ đã tăng lên gần 50% trên tổng số 37.400 ha. Chương trình “Khai hoang Đồng Tháp Mười” đã có những chuyển biến tốt. Huyện mới Tân Phước được thành lập, giao 25.642 ha đất cho 16.217 hộ nông dân, khai hoang đưa vào sản xuất 18.262 ha cây trồng các loại, hình thành các tuyến dân cư mới, mở ra triển vọng cho vùng kinh tế mới của tỉnh phát triển.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng, giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân 28,47%/năm; trong đó, nhóm công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm chiếm ưu thế trong cơ cấu của ngành. Một số doanh nghiệp trong các lĩnh vực: chế biến thủy sản, rau quả, xay xát lương thực… được đầu tư mở rộng sản xuất. Các nghề truyền thống: đan lát chiếu cói ở Châu Thành; đan lưới, làm tủ thờ ở Gò Công được khôi phục. Riêng ngành may gia công xuất khẩu phát triển khá nhanh. Khu công nghiệp của tỉnh từng bước được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư phát triển kinh tế, giải quyết thêm việc làm cho người lao động.
Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư, nhất là thủy lợi, cầu, đường, điện khí hóa, cấp nước sinh hoạt nông thôn phát triển khá nhanh. Đến năm 1998 có 100% số xã đất liền trong tỉnh có đường ô tô đến trung tâm, có gần 50% hộ nông dân có nước sạch sinh hoạt, có 100% xã hạ thế điện, 84% hộ nông dân có điện thắp sáng. Việc lưu thông vận chuyển và đi lại của nhân dân được dễ dàng.
Hoạt động thương mại, dịch vụ có nhiều chuyển biến tốt, hàng hóa phong phú, nua bán linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Giá cả thị trường tương đối ổn định, nhất là một số mặt hàng thiết yếu cho sản xuất, đời sống.
Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội ngày càng phát triển theo hướng xã hội hóa, cơ sở vật chất được xây dựng mới, phục vụ ngày càng tốt hơn đời sống văn hóa của nhân dân.
Các chương trình y tế quốc gia được triển khai tốt, bảo đảm yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế được xây dựng đều khắp các xã, phường, thị trấn. Mỗi trạm y tế đều có quỹ thuốc thiết yếu để chữa bệnh, đưa công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu đến từng hộ gia đình và công đồng dân cư.
Chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục – đào tạo ngày càng được nâng lên. Loại hình, mạng lưới trường lớp được mở rộng đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân. Đặc biệt công tác xây dựng trường lớp, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên được các cấp quan tâm, số học sinh ở các cấp học đến trường hàng năm đều tăng. Năm 1996, Tiền Giang là tỉnh đầu tiên của khu vực đồng bằng sông Cửu Long được Bộ giáo dục công nhận đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng”, “Chăm sóc các gia đình chính sách”… được các ngành, các cấp quan tâm, hưởng ứng, làm đẹp thêm truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của nhân dân ta. Các cuộc vận động “Giải quyết việc làm”, “Xóa đói giảm nghèo”, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống cho một bộ phận công nhân viên chức lao động, đã được đông đảo công nhân viên chức lao động hưởng ứng với tinh thần “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.
Những thành tựu cơ bản về kinh tế – xã hội của tỉnh nhà trong những năm từ 1993 đến 1998 là to lớn, song, vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn do thiên tai lũ lụt nhiều năm liền, nguồn tích lũy vốn đầu tư phát triển sản xuất còn ít, thiết bị công nghệ lạc hậu, chậm được thay thế, sản phẩm làm ra khả năng cạnh tranh còn kém, hiêu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, thu nhập và đời sống của đa số công nhân viên chức lao động còn ở mức thấp. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề xã hội nảy sinh, tình trạng phân hóa giàu – nghèo, đạo đức xã hội xuống cấp, lối sống thực dụng, nạn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí và các tệ nạn xã hội khác đang là những vấn đề đặt ra vô cùng bức xúc .
Cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội, phong trào công nhân viên chức lao động và hoạt động công đoàn có nhiều thay đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Đội ngũ công nhân viên chức lao động có nhiều biến đổi về số lượng, cơ cấu và chất lượng theo xu hướng vừa có bổ sung, vừa có thải loại. Việc phát triển các thành phần kinh tế đã tạo sự chuyển dịch trong công nhân lao động về địa bàn và ngành nghề. Số lượng công nhân viên chức lao động nhìn chung có tăng nhưng không cân đối giữa các thành phần kinh tế.
Những con số thống kê cho thấy số lượng công nhân lao động được tăng dần theo từng năm:
– Năm 1993 có 35.290 người, trong đó khu vực Nhà nước có 29.730 người, khu vực ngoài quốc doanh có 5.560 người.
– Năm 1994 có 50.554 người, trong đó khu vực Nhà nước có 28.098 người, khu vục ngoài quốc doanh có 22.456 người.
– Năm 1995 có 49.519 người, trong đó khu vực Nhà nước có 29.399 người, khu vực ngoài quốc doanh có 20.120 người.
– Năm 1996 có 54.234 người, trong đó khu vực Nhà nước có 31.915 người, khu vực ngoài quốc doanh có 22.319 người.
– Năm 1997 có 60.819 người, trong đó khu vực Nhà nước có 29.367 người, khu vực ngoài quốc doanh có 31.452 người.
Như vậy, số lượng công nhân viên chức lao động khu vực Nhà nước trong suốt 5 năm (1993 – 1997) rất ít biến động (năm 1983 có 29.730 người, thì năm 1997 có 29.367 người), tuy số lượng không lớn, nhưng đây là lực lượng nắm giữ những vị trí quan trọng trong các ngành kinh tế – xã hội.
Lực lượng công nhân lao động khu vực ngoài quốc doanh có sự tăng nhanh về số lượng (năm 1983 có 5.560 người; năm 1997 lên 31.452 người). Một bộ phận quan trọng trong lực lượng này được chuyển từ khu vực kinh tế Nhà nước sang do giảm biên chế hoặc do người lao động tự chuyển dịch vì lý do kinh tế. Nhưng nhìn chung, số đông công nhân lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trình độ và tay nghề chưa cao.
Mặc dù kinh tế có những bước phát triển, tạo thêm nhiều việc làm và thu hút số lượng công nhân lao động ngày một tăng, như số lao động thất nghiệp và không có việc làm ổn định vẫn chiếm gần 10% lực lượng lao động xã hội.
Cùng với sự biến đổi về số lượng, chất lượng của đội ngũ công nhân cũng được nâng lên. Đại đa số công nhân viên chức lao động tin tưởng và ủng hộ đường lối đổi mới của Đảng, vững vàng về chính trị, phát huy được truyền thống, giữ vững bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, có đạo đức và lối sống lành mạnh. Phần đông công nhân viên chức lao động có cố gắng vươn lên để thích ứng với cơ chế mới, tiếp cận công nghệ hiện đại. Một bộ phân công nhân viên chức, nhất là lực lượng trẻ, khắc phục khó khăn vươn lên học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học… Trong số 29.367 công nhân viên chức đã có 6.407 người có trình độ đại học và tương đương, 10.813 trung cấp và công nhân lành nghề, tạo nên một lớp công nhân trí thức làm chủ công nghệ mới.
Nữ công nhân viên chức lao động chiếm hơn 45% tổng số công nhân viên chức lao động toàn tỉnh, những năm qua đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, văn hóa, xã hội và quản lý, có những đóng góp to lớn vào thành tích chung của tỉnh.
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ công nhân còn bộc lộ một số hạn chế. Trình độ văn hóa, tay nghề (cả trong và ngoài quốc doanh) còn thấp so với yêu cầu. Lực lượng trí thức ngày một tăng, trong khi đó công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật còn thiếu do công tác đào tạo chưa được quan tâm và cơ cấu đào tạo thiếu cân đối. Số công nhân lao động không có chuyên môn kỹ thuật còn chiếm tỷ lệ khá cao. Tỷ lệ Đảng viên trong công nhân còn thấp. Một số cán bộ, công chức, viên chức bị tha hóa, biến chất về lối sống và đạo đức, không giữ được phẩm chất của giai cấp công nhân đã gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực.
Trong khu vực kinh tế Nhà nước, quyền làm chủ của công nhân lao động trên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, phân phối hưởng phúc lợi cụ thể và rõ ràng. Quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công nhân viên chức lao động ở nhiều doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và cả một số doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn bị vi phạm, chưa được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Thu nhập của công nhân viên chức bình quân 5 năm (1993- 1998) ở khối hành chính sự nghiệp đạt gần 300.000 đồng/tháng, khối sản xuất kinh doanh đạt gần 450.000 đồng/tháng. Nhìn chung, thu nhập bình quân của người lao động có tăng, nhưng không đồng đều giữa các thành phần kinh tế, đời sống của đại bộ phận công nhân viên chức lao động được cải thiện tương đối ổn định nhưng vẫn còn ở mức thấp. Sự phân hóa giàu nghèo, chênh lệch về thu nhập trong công nhân viên chức lao động ngày một rõ nét do tiền lương chưa phù hợp giữa các ngành, thu nhập có tăng hơn trước nhưng do giá cả một số mặt hàng thiết yếu và dịch vụ tăng, nên nhìn chung thu nhập của người lao động chỉ mới tạm đủ để trang trải những khoản chi tiêu thiết yếu nhất cho cuộc sống. Nhu cầu về nhà ở, mua sắm phương tiên sinh hoạt, học thêm, hưởng thụ văn hóa của công nhân viên chức lao động còn rất hạn chế.
Từ năm 1996, thực hiện Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ VI (nhiệm kỳ 1996 – 2000) về đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trong đó Công đoàn tỉnh phối hợp với các ngành liên quan thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa VII) về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Để thực hiện các Nghị quyết trên, Công đoàn tỉnh tập trung giáo dục về ý thức giác ngộ giai cấp, nắm vững Luật Công đoàn, Bộ Luật Lao động; chăm lo nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề, khả năng tiếp thu nhanh công nghệ mới, thiết bị hiện đại, nâng cao năn suất lao động, cải thiện đời sống, củng cố tổ chức Công đoàn cơ sở, mở rộng xây dựng tổ chức và tập hợp công nhân vào tổ chức, chú trọng khu vực tư doanh và liên doanh, chấn chỉnh và phát huy hiệu lực công tác thanh tra nhân dân; tăng cường vai trò Công đoàn trong việc giám sát và tham gia quản lý xí nghiệp, công ty, cơ quan, bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân ở các thành phần kinh tế.
Trong những năm từ 1993 đến 1998, các phong trào thi đua đổi mới công tác quản lý, thực hiện hách toán kinh doanh, ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm cho kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo được các cấp Công đoàn trong tỉnh chú trọng. Phong trào thi đua “Lao động giỏi” với mục tiêu: “năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều”, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu suất làm việc, đã được vận dụng vào từng ngành nghề như: phong trào “dạy tốt, học tốt” của ngành Giáo dục; phong trào nghiên cứu khoa học nâng cao chất lượng điều trị cho bệnh nhân của ngành Y tế; danh hiệu “Bàn tay vàng” của ngành may mặc và chế biến thủy sản; phong trào “Đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình sản phẩm xây dựng”, phong trào “Sáng tạo kỹ thuật”; phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; các hội thi: “Chủ tịch Công đoàn giỏi”, “Bàn tay vàng”,.. đã tạo được không khí thi đua sôi nổi trong công nhân viên chức lao động, góp phần giúp công nhân viên chức lao động các ngành vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, phát huy tinh thần lao động sáng tạo, để nâng cao hiệu quả trong lao động, góp phần hoàn thành tốt công việc mà mình đang đảm trách. Tiêu biểu có các cá nhân: Bác sĩ Như Mai, Phó Giám đốc kiêm Chủ tịch Công đoàn Trung tâm Y tế Dự phòng Tiền Giang được Quỹ Hỗ trợ Fawic (trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) tặng giải thưởng “Tài năng sáng tạo trẻ” do có nhiều đề tài nghiên cứu; Chị Võ Thị Yểm, Chủ tịch Công đoàn huyện Cai Lậy, đơn vị được nhận cờ xuất sắc của Tổng Liên đoàn Lao động; Bác sĩ Nguyễn Văn Hên, Giám đốc Bệnh viên Lao và Bệnh phổi bảo, bệnh viện đạt danh hiệu xuất sắc toàn diện; Chị Nguyễn Thị Khuyên, Phó Giám đốc Trung tâm xã hội Tiền Giang, người đã gắn bó và tận tụy với nghề; Chị Mai Thị Đẹp, trưởng phòng Kế hoạch, kiêm Chủ tịch Công đoàn cơ sở Công ty Cầu đường (thuộc sở Giao thông – Vận tải) luôn tính toán cho công ty thắng thầu để tạo công ăn việc làm cho anh chị em công nhân, nâng mức lương bình quân của công nhân tăng từ 30 đến 50%; Chị Nguyễn Thị Hoa, chủ tịch Công đoàn Giáo dục huyện Gò Công Tây, nhiều năm được nhận Bằng khen của Công đoàn Giáo dục Việt Nam,… [13]
Từ các phong trào nói trên, trong 5 năm (1993 – 1997) Liên đoàn Lao động tỉnh đã trao tặng 1.738 Bằng khen cho những tập thể, cá nhân tiêu biểu; đồng thời đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng 44 Bằng khen và nhiều cờ thưởng khác.
Để tạo mối quan hệ gắn bó giữa tổ chức Công đoàn với Công nhân viên chức lao động, Liên hiệp Công đoàn tỉnh chủ trương đẩy mạnh các hoạt động xã hội, đẩy mạnh phong trào “Xóa đói, giảm nghèo”, phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” bằng nhiều hình thức: vận động công nhân viên chức đóng góp xây dựng quỹ “Trợ vốn”, quỹ “Vì phụ nữ nghèo”, mua tín phiếu tiết kiệm, các loại quỹ tương trợ, v.v… Kết hợp các nguồn vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm, từ năm 1994 đến năm 1997, Liên đoàn Lao động đã giải quyết cho 3.920 lượt công nhân viên chức lao động vay vốn với tiền 4.050.000.000 đồng. Hầu hết các nguồn vay đều tập trung làm kinh tế nông nghiệp, góp phần giúp công nhân viên chức lao động nghèo có thêm thu nhập, ổn định cuộc sống.
Bên cạnh đó, các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, chăm sóc Bà mẹ Việt Nam anh hùng, vận động đóng góp ủng hộ nhân dân Cuba, ủng hộ đồng bào bị lũ lụt… luôn được các cấp Công đoàn quan tâm chỉ đạo, vận động công nhân viên chức lao động trong tỉnh thực hiện, trở thành phong trào cách mạng sâu rộng, tăng cường thêm tình đoàn kết hữu ái giai cấp, nâng cao vai trò, vị trí của Công đoàn trong công đồng xã hội, làm cho người lao động ngày càng gần gũi, gắn bó hơn với tổ chức Công đoàn.
Để thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng, chăm lo đời sống, giải quyết việc làm cho công nhân viên chức lao động, trong những năm của nhiệm kỳ khóa V, các cấp Công đoàn trong tỉnh đã tham gia với chính quyền xây dựng, kiến nghị và sửa đổi các chế độ, chính sách có liên quan đến lợi ích chính đáng của người lao động, đồng thời thông qua việc tổ chức Đại hội Công nhân viên chức hàng năm, các cấp Công đoàn trong tỉnh đã vận động công nhân viên chức phát huy tinh thần dân chủ, đóng góp nội dung ký kết thỏa ước lao động tập thể, về định mức tiền lương, tiền thưởng, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, vấn đề đảm bảo vệ sinh, an toàn trong lao động… Phối hợp với các ngành chức năng giám sát việc thực hiện Bộ luật Lao động, giải quyết các đơn khiếu tố, khiếu nại của công nhân viên chức lao động; đấu tranh bảo vệ công nhân viên chức và người lao động khi có những hành vi bị ức hiếp, trù dập, hoặc khi ngừng việc, nghỉ việc, bị tai nạn lao động mà người sử dụng lao động giải quyết không thỏa đáng theo quy định của pháp luật.
Công đoàn luôn đóng vai trò nòng cốt trong Hội đồng Bảo hộ Lao động từ tỉnh đến cơ sở. Cùng các ngành chức năng tuyên truyền phổ biến Pháp lệnh Bảo hộ lao động, Nghị định 06/CP của Chính phủ ngày 20/1/1995 về An toàn vệ sinh lao động, mở các lớp tập huấn nghiệp vụ Bảo hộ lao động, phối hợp tiến hành kiểm tra Bảo hộ lao động hơn 200 lượt đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Hướng dẫn cho Công đoàn huyện, thị, thành phố, ngành, cơ sở duy trì tốt phong trào “Xanh – sạch – đẹp – an toàn vệ sinh lao động”. Hàng năm, có khoảng 80% đơn vị khu vực quốc doanh thực hiện tốt chế độ cấp phát trang bị phòng hộ lao động và bồi dưỡng chế độ phụ cấp độc hại cho công nhân lao động. Tuy có nhiều cố gắng, nhưng nhìn chung, tai nạn lao động trong tỉnh vẫn chưa giảm. Công tác củng cố và phát triển mạng lưới an toàn vệ sinh trong hệ thống Công đoàn được đẩy mạnh. Hưởng ứng năm phát động cuộc thi “An toàn vệ sinh viên giỏi” của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Năm 1997, Công đoàn tỉnh đã biên soạn tài liệu và phát động cuộc thi “An toàn vệ sinh viên giỏi” từng cấp để chọn thí sinh cấp tỉnh. Năm đầu tiên (1997) thi chọn ở 3 cấp đã có hơn 1.000 thí sinh tham gia mạng lưới an toàn vệ sinh viên, thực sự là lực lượng nòng cốt, tích cực tham gia công tác tuyên truyền và kiểm tra công tác vệ sinh an toàn ở cơ sở.
Công tác tuyên truyền giáo dục trong công nhân viên chức lao động từng bước được đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đã góp phần làm cho công nhân lao động hiểu sâu hơn về truyền thống cách mạng của dân tộc, hiểu được những thành tựu và những khó khăn trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, củng cố thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú linh hoạt phù hợp với điều kiện sản xuất, công tác của đoàn viên và công nhân lao động. Ngoài những hình thức và biện pháp trên, Liên đoàn Lao động tỉnh còn phối hợp với cơ quan Báo, Đài xây dựng thêm chuyên mục “Công nhân lao động”, trang tin về hoạt động Công đoàn trên báo Ấp Bắc, phát hành sổ tay “Sinh hoạt Công đoàn”… các hình thức tuyên truyền trên đã có tác dụng lớn trong việc truyền tải thông tin kịp thời về lao động và Công đoàn cho công nhân lao động.
Việc tuyên truyền phổ biến sâu rộng các Nghị quyết của Đảng khóa VII, khóa VIII, Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ khóa VI, Nghị quyết Đại hội VII Công đoàn Việt Nam, các chính sách, pháp luật của Nhà nước được các cấp Công đoàn quan tâm với nhiều hình thức như: tổ chức học tập quán triệt, tọa đàm, biên soạn tài liệu tóm tắt, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu… thu hút hàng chục ngàn công nhân viên chức lao động tham gia. Kết hợp với công tác tuyên truyền giáo dục, các cấp Công đoàn còn tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao, hội thi, hội diễn của các cấp Công đoàn được tổ chức sôi nổi, thu hút công nhân lao động tham gia đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa lành mạnh ở cơ sở. Kết quả của công tác tuyên truyền, học tập và quán triệt nhiệm vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người lao động đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Qua đó Công đoàn nắm được tâm tư, nguyện vọng, diễn biến tư tưởng của động gũ công nhân viên chức lao động để kiến nghị với Đảng, Nhà nước về chiến lược pha`1t triển giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Ngoài ra, Công đoàn các cấp trong tỉnh đã vận động đoàn viên là công nhân viên chức tích cực tham gia cải cách thủ tục hành chính, xây dựng và kiến nghị với các cấp thực hiện cơ chế dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng và các hện tương tiêu cực khác, đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội trong công nhân viên chức lao động, góp phần gìn giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Bộ luật Lao động và Điều lệ Bảo hiểm cùng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động có hiệu lực vào đầu năm 1995, Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ về thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Liên đoàn Lao động tỉnh đã chuẩn bị các điều kiện để bàn giao nhiệm vụ và nhân sự, tái chánh, tài sản của Bảo hiểm xã hội Công đoàn cho Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý.
Công tác tổ chức là một trong những khâu hết sức quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết do Đại hội Công đoàn tỉnh đề ra. Do đó, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Liên đoàn lao động đã có bước kiện toàn, sắp xếp lại bộ máy tổ chức Công đoàn từ tỉnh đến huyện, thị, ngành theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Xác định mối quan hệ giữa các Công đoàn ngành và huyện, thị, thành phố để tránh sự chỉ đạo chồng chéo đối với các Công đoàn cơ sở đóng trên địa bàn. Từ đó, Công đoàn các cấp đã phát huy được tính chủ động trong hoạt động, công tác chỉ đạo, thực hiện được kịp thời hơn.
Thực hiện mục tiêu đổi mới tổ chức cán bộ, xây dựng Công đoàn vững mạnh và đa dạng hóa các hình thức tập hợp công nhân lao động trên cơ sở Thông tri số 50/TT- TLĐ ngày 1/1/1995 về xây dựng cơ sở Nghiệp đoàn vững mạnh, công tác phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức Công đoàn đã có những chuyển biến tích cực, đối tượng đoàn viên được mở rộng ra các thành phần kinh tế. Tính đến tháng 12/ 1997 toàn tỉnh có 754 Công đoàn cơ sở, Nghiệp đoàn, trong đó khu vực Nhà nước có 648 Công đoàn cơ sở, khu vực ngoài quốc doanh có 106 Công đoàn cơ sở và Nghiệp đoàn.
Về tổ chức, Liên đoàn lao động tỉnh đã đẩy mạnh việc tuyên truyền phát triển đoàn viên và thành lập Công đoàn ngoài quốc doanh rất mạnh, đến năm 1998, toàn tỉnh đã xây dựng, phát triển được 106 Công đoàn cơ sở và Nghiệp đoàn, với tổng số 6.356 đoàn viên, đạt tỷ lệ 60% trong tổng số doanh nghiệp có 10 lao động trở lên được thành lập tổ chức Công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn. Chỉ trong vài năm, tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có tổ chức Công đoàn và nhiều Công đoàn cơ sở khu vực ngoài quốc doanh hoạt động rất tốt, thúc đẩy sản xuất phát triển, Công đoàn đấu tranh và bảo vệ quyền lợi cho công nhân và có những hoạt động phong phú giúp cho công nhân tham gia nhiệt tình và gắn bó với tổ chức Công đoàn.
Để nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ Công đoàn, trong nhiệm kỳ 1993 – 1998, Liên đoàn Lao động tỉnh đã chú trọng đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ Công đoàn các cấp. Hàng năm đã kết hợp với trường Công đoàn thành phố Hồ Chí Minh, trường Chính trị tỉnh đưa đi dự các lớp đào tạo chính quy và tại chức, đồng thời khuyến khích cán bộ Công đoàn tự học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, nhằm trang bị cho mình những kiến thức mới phục vụ cho yêu cầu công tác. Đến năm 1998 đã có 57% cán bộ chuyên trách Công đoàn qua đại học và tương đương, 80% cán bộ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Công đoàn là bán chuyên trách đã qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về hoạt động Công đoàn. Hầu hết lực lượng này đang phát huy những kiến thức đã học, kết hợp với những kinh nghiệm được tích lũy trong thực tiễn để vận dụng và nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn ở đơn vị. Bên cạnh đó, cùng với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ Công đoàn, các cấp Công đoàn trong tỉnh cũng đã xây dựng quy chế phối hợp hoạt động với chính quyền, làm cơ sở thuận lợi để thực hiện tốt vai trò, chức năng, quyền hạn của tổ chức Công đoàn theo quy định của Pháp luật.
Ban Nữ công cơ sở đã được củng cố, kiện toàn, thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho nữ công nhân viên chức, tổ chức nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng được nguyện vọng của anh chị em như: Vận động tổ chứ Quỹ tiết kiệm “Vì phụ nữ nghèo”, trao đổi kinh nghiệm với chị em thành đạt, giúp chị em làm kinh tế gia đình, nuôi con khỏe, dạy con ngoan; tổ chức quyên góp giúp đỡ trẻ em nghèo hiếu học ở các huyện vùng sâu nhân ngày khai trường, tổ chức hội thi “Khéo tay”, hội thi “Giáo viên tài năng”, thi “Phóng viên giỏi”, thi nấu ăn, thi cắm hoa, hái hoa dân chủ, nói chuyện chuyên đề, nói chuyện truyền thống… nhân các ngày lễ 8/3, 20/10. Các hoạt động trên đem lại hiệu quả tốt cả về kinh tế và xã hội, góp phần giải quyết khó khăn cho nữ công nhân viên chức lao động và nâng cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình, cũng như ngoài xã hội. Bộ luật Lao động ra đời cũng đã tác động lớn đến giới nữ. Hoạt động nữ công ở giai đoạn này rất sôi nổi, chuyển biến cả về chất lượng, nội dung và hình thức hoạt động. Các ngành và xã hội đã quan tâm nhiều đến công tác nũ.
Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình được đa số công nhân viên chức lao động thực hiện tốt.Mô hình gia đình chỉ có 2 con đang phổ biến trong công nhân viên chức lao động trẻ. Công tác giáo dục nâng cao kiến thức về xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình, kiến thức nuôi dạy con theo khoa học, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao trong nữ công nhân viên chức lao động, nhất là nữ công nhân viên chức lao động trẻ được các cấp Công đoàn quan tâm. 5 năm (1993 – 1997) đã tổ chức tập huấn về kiến thức kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và truyền thông dân số cho hơn 20.000 lượt chị em. Ngoài ra còn tuyên truyền về các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, của Công đoàn về công tác cán bộ nữ, về nội dung của Hội nghị Phụ nữ thế giới tại Bắc Kinh, v.v…
Từ khi có Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn”. Phong trào thi đua phục vụ sản xuất nông nghiệp trong tỉnh có sự chuyển biến mới. Liên đoàn Lao động tỉnh chọn Công đoàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm điểm chỉ đạo tập trung để liên kết các ngành và nhân ra diện rộng.
Với vai trò mũi nhọn, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức tập huấn công tác khuyến nông, thí nghiệm làm giống lúa cao sản, phổ biến kỹ thuật chăn nuôi, kiến thức phòng trừ sâu bệnh cho lực lượng nông dân nòng cốt các huyện, thị. Ngành giao thông vận tải đã vận động công nhân viên chức lao động trong ngành khắc phục khó khăn, xây dựng các công trình cầu đường vận chuyển hàng hóa nông sản. Thông qua việc thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ vốn vay sản xuất, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo trong nông dân; ngành Thương mại dịch vụ cung ứng phân bón, xăng dầu và mở rộng các điểm bán hàng, góp phần tiêu thụ sản phẩm; ngành Y tế phục vụ nông dân vùng sâu, vùng xa phòng trừ dịch bệnh; ngành Điện lực đưa điện về nông thôn phục vụ nông nghiệp đạt 100% toàn xã; ngành Giáo dục mở các lớp bổ túc văn hóa để nâng cao trình độ văn hóa cho nông dân, công nhân viên chức Viện nghiên cứu Cây ăn quả Long Định đẩy mạnh công tác nghiên cứu nhân giống, cải tạo giống cây ăn trái đưa vào sản xuất đạt hiệu quả cao, Sở Khoa học Công nghệ – Môi trường nghiên cứu nhiều đề tài khoa học, ứng dụng vào sản xuất, đời sống, như: chương trình nước sạch nông thôn, xử lý chất thải chăn nuôi, v.v… Sự hưởng ứng của công nhân viên chức lao động trong các ngành về phong trào phục vụ nông nghiệp đã góp phần to lớn vào việc phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng bộ mặt mới ở nông thôn, từng bước phục vụ tốt sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn của tỉnh nhà.
X X
X
5 năm (1993 – 1998), giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, công nhân viên chức lao động Tiền Giang đã có những đóng góp to lớn vào thành tựu chung của tỉnh rất đáng trân trọng: Đưa sản lượng lương thực lên 1.300.000 tấn, năm 1998 (là năm có sản lượng cao nhất cho đến thời điểm năm 1998, bình quân mỗi người xấp xỉ 800 kg); GDP tăng bình quân 12,88%, đánh dấu nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ khủng hoảng và đang có sự tăng trưởng nhanh.
Để có sự đóng góp to lớn vào thành tựu chung của toàn tỉnh, Công đoàn Tiền Giang khóa V đã tập trung xây dựng Công đoàn vững mạnh, chọn lựa, bố trí, đào tạo đội ngũ cán bộ Công đoàn có trình độ, năng lực, năng động sáng tạo, nhạy bén, có bản lĩnh, nhiệt tình với phong trào là nhân tố quyết định mang lại hiệu quả trong hoạt động Công đoàn.
Phương thức hoạt động Công đoàn được thường xuyên đổi mới, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng công nhân lao động.
Hoạt động xã hội Công đoàn ngày càng được mở rộng, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân viên chức lao động càng được quan tâm bảo vệ. Cán bộ Công đoàn gần gũi, sâu sát với công nhân viên chức lao động, tập hợp, thu hút đông đảo công nhân viên chức lao động tham gia tổ chức Công đoàn, hoạt động Công đoàn ngày càng giảm bớt quan liêu hành chính hơn, vị trí của Công đoàn trong xã hội càng được nâng cao.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII Công đoàn Việt Nam, Nghị quyết Đại hội V Công đoàn tỉnh Tiền Giang, phong trào công nhân viên chức và hoạt động Công đoàn tỉnh có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, đổi mới nội dung phương thức hoạt động tạo sự chuyển biến sâu sắc trong các tầng lớp trong xã hội. Tổ chức Công đoàn đã phát triển mạnh ra thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt giai đoạn này, Liên đoàn Lao động tỉnh đã có những công cụ hỗ trợ cho hoạt động Công đoàn như Tư vấn Pháp luật, Giới thiệu việc làm, Quỹ trợ vốn công nhân lao động nghèo… nhằm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và cũng là hình thức đẩy mạnh và đa dạng hóa các hoạt động Công đoàn trong tỉnh.
Những chỉ tiêu nhiệm vụ do Đại hội V Công đoàn tỉnh đặt ra cơ bản đã đạt được, các hoạt động công đoàn được tăng cường, mở rộng hoạt động và đem lại hiệu quả, đường lối đổi mới của Đảng thành công bước đầu, công nhân viên chức lao động Tiền Giang vẫn giữ được truyền thống cách mạng vượt qua những khó khăn thử thách. Phong trào công nhân viên chức lao động và hoạt động công đoàn đã đứng vững trong cơ chế thị trường, giai cấp công nhân luôn thể hiện là người đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Phương thức hoạt động công đoàn có nhiều đổi mới, đặc biệt là các hình thức Hội thi Cán bộ Công đoàn giỏi từ cơ sở đến cấp tỉnh, nhiều hìh thức tuyên truyền về tổ chức Công đoàn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng đã được dư luận xã hội đánh giá cao và ủng hộ. Luật Công đoàn và Bộ luật Lao động ra đời đã nâng cao vị trí pháp lý của tổ chức Công đoàn, với những quy định mới về vị trí chức năng, các quyền và trách nhiệm của Công đoàn phù hợp với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, lao động trí óc và những người lao động khác, Luật Công đoàn đã tạo thêm những điều kiện mới để Công đoàn cả nước nói chung và Công đoàn Tiền Giang nói riêng phát triển mạnh mẽ tổ chức, nâng cao mọi hoạt động trên các lĩnh vực. Qua đó, các quyền và lợi ích của người lao động được tôn trọng và bảo vệ, vị thế của tổ chức Công đoàn được các tầng lớp xã hội biết đến và đánh giá rất tốt, là tổ chức đại diện của giai cấp công nhân.
Những thành tựu của phong trào công nhân viên chức và hoạt động công đoàn trong nhiệm kỳ Khóa V đã tạo ra tiền đề quan trọng để công nhân lao động Tiền Giang tiếp tục thực hiện mục tiêu Đại hội Đảng đề ra là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
CHƯƠNG IV
CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG XÂY DỰNG
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG
TRONG THỜI KỲ MỞ CỬA – HỘI NHẬP QUỐC TẾ
(5/1998 – 6/2008)
BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Vào năm 1998, chỉ còn 2 năm nữa là thế kỷ XX sẽ trôi qua. Nhiệm kỳ Khóa VI Công đoàn Tiền Giang chỉ 5 năm (1998 – 2003) được vắt qua 2 thế kỷ (XX và XXI), trong đó, thế kỷ XX đã để lại dấu ấn cực kỳ sâu sắc: Là thế kỷ khoa học và công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy; kinh tế phát triển mạnh mẽ xen kẽ những cuộc khủng hoảng lớn của chủ nghĩa tư bản thế giới và sự phân hóa gay gắt về giàu nghèo của các nước, các khu vực. Cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, nhân loại chứng kiến những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Cuộc khủng hoảng về tài chính – kinh tế ở một số nước châu Á tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
Đối với nước ta, nền kinh tế tăng trưởng khá. Văn hóa – xã hội có những tiến bộ. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên và lao động. Tình hỉnh chính trị – xã hội cơ bản ổn định, đồng thời, đất nước phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ là “tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây ra”. Đến đầu thế kỷ XXI vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp. Đảng ta xác định đường lối kinh tế là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp”[14].
Tại Tiền Giang, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lần thứ VI nhiệm kỳ 1996 – 2000 thành công tốt đẹp. Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ những năm 1996 – 2000 là: “Tập trung phát triển chiều sâu và bền vững nông – lâm – ngư nghiệp, đẩy mạnh hơn tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo ra bước chuyển biến căn bản cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa”. Sau hơn 1 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng bộ tỉnh, nền kinh tế tỉnh nhà tăng trưởng khá ổn định. Tổng sản phẩm quốc nội của tỉnh (GDP) tăng bình quân 7%/ năm. Sản lượng lương thực trong nhiều năm đạt trên 1.300.000 tấn; khu vực thủy hải sản tăng 8%, sản xuất nông nghiệp, xây dựng tăng trên 10%, khu vực thủy – hải sản tăng 8%, khu vực dịch vụ tăng 15%; các chương trình kinh tế trọng điểm như: chương trình phát triển kinh tế lúa gạo, chương trình phát triển kinh tế vườn, chương trình phát triển kinh tế thủy sản, chương trình phát triển công nghiệp chế biến, chương trình phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn và chỉnh trang đô thị đã đạt được kết quả to lớn. Chương trình “Ngọt hóa Gò Công” cơ bản đã hoàn thành và đang phát huy hiệu quả, mở ra một triển vọng mới cho vùng đất phía Đông của tỉnh. Các Khu Công nghiệp được xây dựng và định hình; Khu Công nghiệp Mỹ Tho và Cụm Công nghiệp Trung An đã hoạt động với nhiều khởi sắc. Phần lớn các hộ nông dân chuyển dần sang sản xuất hàng hóa. Đầu tư nước ngoài vào tỉnh tăng khá, nhưng chưa đạt kế hoạch. Đời sống của nhân dân được nâng lên đáng kể. Bộ mặt nông thôn và thành thị đang dần được đổi mới. Phong trào công nhân viên chức lao động đã có những đóng góp to lớn vào kinh tế – xã hội của tỉnh nhà. Hoạt động công đoàn được mở rộng ra các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tổ chức và hoạt động Công đoàn đang từng bước thích nghi với cơ chế thị trường, đạt những thành tựu to lớn và quan trọng.
- ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN TIỀN GIANG LẦN VI VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM KỲ 1998 – 2003:
ĐẠI HỘI VI:
Từ cuối năm 1997, trong không khí của công cuộc đổi mới, trong niềm vui của những thành tựu kinh tế – xã hội tại tỉnh nhà, các cấp Công đoàn phấn khởi đi vào mùa Đại hội Công đoàn. Trong mùa Đại hội, các phong trào thi đua trong công nhân viên chức lao động lập thành tích chào mừng Đại hội Công đoàn các cấp, đặc biệt chào mừng Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần thứ VI diễn ra sôi nổi và đầy phấn khởi.
Để đi đến Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần VI, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ, Tiểu ban nội dung chuẩn bị văn kiện Đại hội với tinh thần trách nhiệm cao, khẩn trương soạn thảo các văn bản, lấy ý kiến đóng góp của các công đoàn ngành, huyện , thị, ý kiến của Ban Chấp hành, đặc biệt ý kiến của Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh để hoàn thiện văn kiện Đại hội trước khi trình Thường vụ Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy, công tác nhân sự được chuẩn bị thận trọng và chu đáo.
Được sự đồng ý của Thường vụ Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang được khai mạc trọng thể vào sáng 29 tháng 5 năm 1998 và tiến hành trong 2 ngày: 29 và 30 tháng 5 năm 1998, tại Hội trường Ấp Bắc, trung tâm thành phố Mỹ Tho.
Đại hội vinh dự được đón tiếp các đồng chí đại diện Ban Thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đồng chí Võ Đông Ba, ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Tiền Giang; đồng chí Huỳnh Hữu Kha, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh; các đồng chí đại diện cho các ngành, các huyện, thị trong tỉnh.
Sau lời khai mạc, đồng chí Huỳnh Xuân Việt, Chủ tịch Liên đoàn Lao động Tiền Giang đã đọc báo cáo của Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh. Báo cáo nêu rõ: “Đại hội lần này có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá đúng mức hoạt động nhiệm kỳ qua, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết để xác định mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, nhằm đưa phong trào công nhân viên chức lao động và hoạt động công đoàn ngày càng phát triển, phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Báo cáo của Ban Chấp hành đã nêu tình hình phong trào công nhân viên chức lao động và hoạt động công đoàn thực hiện Nghị quyết Đại hội V Công đoàn tỉnh và nhận xét: “Từ năm 1993 đến nay (1998), trong bối cảnh chung của đất nước, đội ngũ công nhân viên chức lao động Tiền Giang đã có những thay đổi về cơ cấu, số lượng và chất lượng, trình độ học vấn và tay nghề được nâng lên, nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới, thích nghi từng bước với cơ chế thị trường. Đây là lực lượng đi đầu trong các phong trào hành động cách mạng”.
Về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ công tác công đoàn nhiệm kỳ 1998 – 2003, báo cáo nhấn mạnh: “Ra sức phát triển đoàn viên trong các thành phần kinh tế; xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ Công đoàn; xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn, tay nghề cao; tham gia xây dựng và giám sát thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến công nhân viên chức lao động… Tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khẩu hiệu hành động là: Vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ lợi ích công nhân viên chức lao động”.
Báo cáo đã nêu những nhiệm vụ cụ thể là:
– Xây dựng đội ngũ công nhân viên chức lao động vững mạnh, vững vàng về chính trị, có trình độ học vấn, tay nghề, nghiệp vụ cao, có ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp, năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường, từng bước đáp ứng, phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Tiền Giang.
– Đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, phấn đấu đến năm 2003 khu vực kinh tế Nhà nước có 90 – 95% công nhân viên chức lao động vào tổ chức Công đoàn, nâng cao chất lượng Công đoàn cơ sở vững mạnh; cùng với các cấp Ủy địa phương, tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05 của Tỉnh ủy về việc xây dựng và phát triển Công đoàn ngoài quốc doanh, đảm bảo 100% những doanh nghiệp có đủ điều kiện thành lập tổ chức Công đoàn, có 70 – 80% công nhân viên chức là đoàn viên Công đoàn, 70 – 75% Công đoàn cơ sở đạt vững mạnh.
– Cùng với chính quyền địa phương tăng cường việc kiểm tra thực hiện có hiệu quả các chính sách pháp luật có liên quan đến công nhân viên chức lao động nhất là các chính sách về lao động tiên lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động và các chính sách xã hội khác.
– Tăng cường các hoạt động xã hội và xã hội hóa hoạt động Công đoàn nhằm chăm lo, giúp đỡ ngày càng nhiều cho đoàn viên, công nhân viên chức lao động, làm cho công nhân viên chức lao động gắn bó hơn với tổ chức Công đoàn.
– Không ngừng đổi mới về công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao chất lượng tuyên giáo Công đoàn các cấp.
– Đẩy mạnh phong trào thi đua lao động giỏi, phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và phong trào “xanh – sạch – đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh trong lao động”
– Vận động công nhân viên chức lao động đẩy mạnh phong trào liên kết phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở Tiền Giang. Qua đó tăng cường khối đoàn kết liên minh công nông và trí thức.
– Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế tài chánh của Công đoàn để tạo thêm nguồn thu bổ sung cho ngân sách Công đoàn phục vụ cho các mặt hoạt động Công đoàn.
– Tiếp tục đổi mới hoạt động nữ công, nâng cao chất lượng giáo dục về giới và tăng cường các hoạt động xã hội. Vận động nữ công nhân viên chức lao động thực hiện tốt phong trào giỏi việc nước đảm việc nhà và các phong trào do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động.
– Vận động công nhân viên chức lao động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh.
– Phát huy tốt vai trò của Ủy ban Kiểm tra Công đoàn các cấp theo điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định.
Báo cáo của Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh được Đại hội tán thành và hoanh nghênh.
Với tinh thần dân chủ, trí tuệ và trách nhiệm cao, Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh Khóa VI (nhiệm kỳ 1998 – 2003) gồm 35 đồng chí. Ban Chấp hành đã họp phiên đầu tiên, bầu Ban Thường vụ và Ủy ban Kiểm tra. Ban Thường vụ gồm 11 Ủy viên. Đồng chí Huỳnh Xuân Việt tiếp tục được bầu giữ chức vụ Chủ tịch. Đồng chí Lê Quốc Việt và đồng chí Trương Thị Bé Sáu được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động Tiền Giang nhiệm kỳ 1998 – 2003 (Tháng 1 năm 2000 đồng chí Huỳnh Xuân Việt chuyển công tác, đồng chí Lê Quốc Việt được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quyết định giao chức vụ Quyền Chủ tịch Liên đoàn Lao động Tiền Giang. Tháng 3 năm 2001 đồng chí Lê Quốc Việt chuyển công tác, đồng chí Phạm văn Khiết, Tỉnh ủy viên, Giám đốc sở Công nghiệp Tiền Giang được điều động đến công tác tại Liên đoàn Lao động Tiền Giang. Tháng 7 năm 2001, ban Chấp hành bầu bổ sung đồng chí Phạm Văn Khiết giữ chức vụ Chủ tịch, đồng chí Trương Văn Hiền – Phó Chủ tịch. Từ tháng 7 năm 2001, đồng chí Phạm Văn Khiết giữ chức vụ Chủ tịch, đồng chí Trương Thị Bé Sáu và đồng chí Trương Văn Hiền giữ chức vụ Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động Tiền Giang) [15].
Sau 2 ngày làm việc khẩn trương, sôi nổi, Đại hội Công đoàn Tiền Giang Khóa VI (nhiệm kỳ 1998 -2003) đã thành công tốt đẹp.
Đại hội VI Công đoàn Tiền Giang là Đại hội chuyển tiếp giữa 2 thế kỷ, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước do Đảng ta đề ra. Đại hội diễn ra trong niềm phấn khởi, tin tưởng của công nhân viên chức – lao động và tổ chức Công đoàn tỉnh với những thành tựu sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới cùng với những cơ chế chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Đảng bộ và nhân dân Tiền Giang đã ra sức phát huy nội lực, đoàn kết, khắc phục khó khăn, phấn đấu vượt qua những thách thức do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực.
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐẠI HỘI VI.
Thành công của Đại hội VI Công đoàn Tiền Giang đã thể hiện sự quyết tâm xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, nhằm xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội VI Tỉnh Đảng bộ Tiền Giang và Nghị quyết Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI Công đoàn Tiền Giang, tình hình kinh tế – xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, tạo ra bước chuyển biến tích cực trên các mặt kinh tế, văn hóa – xã hội; chính trị ổn định; an ninh, quốc phòng ngày càng được củng cố..
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình xây dựng phát triển của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, sự chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trong những năm cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, đội ngũ công nhân viên chức lao động tỉnh Tiền Giang phát triển về số lượng và chất lượng.
Năm 2003, số lượng công nhân viên chức lao động trong toàn tỉnh có 79.643 người, đang làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế, trong đó có 41.792 người làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuổi đời từ 18 đến 35 chiếm trên 70%, tuổi nghề từ 5 đến 10 năm chiếm trên 65%.
Trước yêu cầu của sự ngiệp đổi mới cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của đội ngũ công nhân viên chức lao động ngày càng được nâng lên; đa số có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có tinh thần yêu nước, đoàn kết, luôn nêu cao ý thức tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, không ngừng vươn lên trong các lĩnh vực công tác, sản xuất, đời sống, là lực lượng tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phần lớn cán bộ công chức làm việc trong các cơ quan, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở các ngành, các cấp là những người có năng lực chuyên môn được đào tạo cơ bản, được chuẩn hóa về học vấn, chính trị, đây chính là lực lượng nòng cốt tham mưu cho Đảng, chính quyền các cấp trong việc đề ra chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, đội ngũ công nhân viên chức lao động còn bộc lộ một số hạn chế. Trình độ tay nghề, bậc thợ của công nhân trực tiếp sản xuất thuộc các thành phần kinh tế, nhìn chung còn thấp. Tỷ lệ lao động giản đơn chưa qua đào tạo tăng, nhất là trong các ngành may, xây dựng. Qua một cuộc điều tra cho thấy: công nhân lao động có trình độ tiểu học và trung học cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học chiếm 74%, còn 27% công nhân lao động chưa qua đào tạo về chuyên môn, 57 % công nhân lao động chưa qua đào tạo về chính trị, đáng lưu ý là còn 0,3% công nhân lao động chưa biết chữ. Thể lực của một bộ phận công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của nề sản xuất phát triển.
Một bộ phận công nhân lao động ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do thời gian, điều kiện lao động và tính chất công việc, nên ít có điều kiện sinh hoạt chính trị, hội họp để thông tin, tuyên truyền, nên nhận thức chính trị, ý thức giác ngộ giai cấp, hiểu biết về Đảng, về Công đoàn và kiến thức pháp luật còn hạn chế. Tỷ lệ đảng viên là công nhân trực tiếp sản xuất thấp, chỉ 7%. Một số công nhân lao động chạy theo lối sống thực dụng, chưa tích cực với các hoạt động chính trị, ý thức kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn yếu. Một bộ phận nhỏ cán bộ công chức bị tha hóa về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, quan liêu, lãng phí, làm giàu bất chính.
Tình hình kinh tế – xã hội phát triển, kèm theo là những chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước, nhất là khi có Luật Doanh nghiệp, Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 5 của Đảng (Khóa IV) đã tạo điều kiện khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế đầu tư cho sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động. Tỷ lệ lao động trong các thánh phần kinh tế tăng bình quân 4,5%/ năm.
Điều kiện làm việc của đa số công nhân viên chức cơ quan hành chính sự nghiệp và nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh lớn được đảm bảo, do được đầu tư trang thiết bị công nghệ, xây dựng nhà xưởng , nhà làm việc mới khá tốt. Nhưng nhìn chung, vẫn còn nhiều công nhân lao động trực tiếp sản xuất đang phải làm việc trong điều kiện môi trường, vệ sinh lao động chưa đảm bảo, các quy định về an toàn lao động ít được quan tâm, trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân thiếu và kém chất lượng. Tình trạng tăng ca, tăng giờ trái quy định còn khá phổ biến tại một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đã làm giảm sút sức khỏe của người lao động. Tai nạn lao động còn xảy ra, có vụ trở nên nghiêm trọng.
Chính sách tiền lương của Nhà nước tuy đã được điều chỉnh nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Từ năm 1988 đến năm 2003, tuy Chính phủ đã 4 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu, nhưng nhìn chung tiền lương vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chi dùng thiết yếu và chưa thực sự là động lực để khuyến khích công nhân viên chức lao động hăng say làm việc. Tiền lương của cán bộ công chức khu vực hành chính sự nghiệp nhìn chung còn ở mức thấp. Ở các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tiền lương và thu nhập của công nhân lao động tương đối cao và ổn định. Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm ăn có hiệu quả, thu nhập của người lao động có cao hơn, nhưng cường độ lao động rất cao.
Trong các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và phần lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh thu nhập của người lao động còn thấp và không ổ định, chính sách xã hội chưa được bảo đảm. Sự chênh lệch quá cao về thu nhập tiền lương giữa một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh độc quyền hoặc doanh nghiệp được đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại so với những doanh nhiệp khác tạo sự khác nhau trong mức sống, sinh hoạt, ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm và dẫn đến sự không đồng nhất trong nhận thức của đội ngũ công nhân viên chức lao động.
Qua khảo sát vào giữa năm 2002 cho thấy: bình quân thu nhập của công nhân lao động trong các cụm, khu Công nghiệp đạt 1.100.000 đồng/ tháng; trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.0.00.000 đồng/ tháng, cao nhất là 3.700.000 đồng/tháng; đối với cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính sự nghiệp bình quân 1.200.000 đồng/ tháng, thấp nhất 246.000 đồng/tháng.
Nhìn chung, việc đổi mới chính sách về kinh tế ở địa phương trong những năm 1988 – 2003 là động lực khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, nhiều người trong độ tuổi lao động có việc làm, thu nhập của người lao động từng bước được cải thiện, nhưng phần lớn các doanh nghiệp trong tỉnh quy mô còn nhỏ, trang thiết bị lạc hậu nên chất lượng hàng hóa còn kém, giá thành cao, không được thị trường tiếp nhận nên một số doanh nghiệp bị phá sản hoặc giải thể, dẫn đến một bộ phận công nhân lao động không có việc làm ổ định. Ngược lại, công nhân lao động ở một số xí nghiệp may mặc gia công xuất khẩu, chế biến thủy sản ngày làm việc với cường độ lao động cao, người sử dụng lao động không giải quyết chế độ làm thêm giờ một cách thỏa đáng, có lúc đã xảy ra xung đột trong quan hệ lao động dẫn đến phản ứng của tập thể, của người lao động. Toàn tỉnh có 70% công nhân lao động được ký kết hợp đồng lao động, trong đó doanh nghiệp Nhà nước ký kết 100% số hợp đồng lao động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 85%, doanh nghiệp tư nhân 70%. Trong toàn tỉnh có 68% số công nhân lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, riêng các doanh nghiệp trong Khu Công nghiệp, Cụm Công nghiệp chỉ đạt 56%. Đáng kể là các doanh nghiệp còn nợ bảo hiểm xã hội mà chưa khắc phục được, cá biệt có doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm Xã hội của người lao động, nhưng chưa có các hình thức chế tài xử lý thích đáng.
Riêng vấn đề nhà ở của đại bộ phận công nhân viên chức lao động còn rất nhiều bức xúc. Đến năm 2003, ở các Khu Công nghiệp có rất ít doanh nghiệp tạo điều kiện về chỗ ở cho công nhân lao động, hầu hết công nhân lao động đều tự lo và tìm chỗ ở tại các khu nhà trọ chật hẹp, có nơi không đủ điều kiện cần thiết cho người lao động sinh hoạt hàng ngày, đời sống tinh thần cũng bị giới hạn do thời gian và cường độ làm việc nhiều nên không có điều kiện tham gia các sinh hoạt văn thể mỹ.
Phần lớn công nhân viên chức lao động quan tâm đến đời sống chính trị và nhận thức đúng về tình hình đất nước, tin tưởng vào đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Nhận thức rõ hơn về kinh tế thị trường, hội nhập khu vực, nên năng động sáng tạo hơn trong suy nghĩ và hành động, có ý thức vươn lên trong học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có hiểu biết về Đảng, về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn. Một bộ phận không nhỏ trong công nhân viên chức và người lao động tỏ ra bất bình, lo lắng trước tệ nạn tham nhũng, lãng phí, suy thoái đạo đức trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên; chưa thật sự yên tâm trước tình hình tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội còn diễn bến phức tạp; vệ sinh – an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động.
Tâm trạng của đa số công nhân lao động trong các công ty cổ phần đều phấn khởi do đời sống, thu nhập được cải thiện, nhưng một bộ phận còn băn khoăn về việc định giá tài sản, giải quyết công nợ và việc thực hiện chính sách cổ phần ưu đãi đối với người lao động. Tâm trạng của công nhân lao động ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh lo lắng về việc làm, thu nhập không ổn định, tình trạng vi phạm Luật Lao động còn phổ biến, điều kiện và môi trường làm việc kém, cường độ lao động cao. Mong muốn có chỗ ở và việc làm ổn định cuộc sống.
Đại hội VI Công đoàn tỉnh Tiền Giang đã đề ra mục tiêu cho hoạt động Công đoàn và phong trào công nhân viên chức lao động trong giai đoạn 1998 – 2003 là: “Vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng gia cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ lợi ích công nhân viên chức, lao động”.
Sau 5 năm tổ chức thực hiện, Nghị quyết Đại hội VI Công đoàn tỉnh Tiền Giang đã đáp ứng được yêu cầu của phong trào công nhân viên chức lao động, hoạt động Công đoàn và nguyện vọng của công nhân viên chức lao động với những kết quả đạt được như sau:
Phát huy tính năng động, sáng tạo, tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao chất lượng hoạt động tuyên giáo Công đoàn.
Với phương châm hướng hoạt động về cơ sở, các cấp Công đoàn đã bám sát thực tiễn, phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo, thường xuyên tuyên truyền các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước dưới nhiều hình thức, kịp thời chuyển thông tin đến công nhân viên chức lao động. Nổi bật là các đợt hoạc tập Nghị quyết Đại hội Đảng, Nghị quyết Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ VIII, 5 bài học giáo dục chính trị cơ bản, Luật Công đoàn, Luật Lao động (sửa đổi), Pháp lệnh Cán bộ công chức… trong đó vai trò Công đoàn ngành, huyện, thị, thành phố thật sự trở thành đầu mối tập hợp công nhân viên chức lao động, được các cấp Ủy và lãnh đạo các cấp đánh giá cao.
Thông qua các ngày lễ kỷ niệm lịch sử đất nước, công tác giáo dục truyền thống, ngành nghề được các cấp Công đoàn quan tâm, đã vun bồi thêm lòng yêu quê hương, đất nước, làm cho công nhân viên chức lao động gắn bó với nghề nghiệp của mình hơn.
Các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, Bác Hồ, về Công đoàn Việt Nam; các hội thi Kiến thức Pháp luật và gia đình, Tuyên truyền viên giỏi … luôn được đông đảo công nhân viên chức, lao động và đoàn viên tích cực tham gia hưởng ứng với tình cảm, ý thức trách nhiệm cao. Nhân ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, các cấp Công đoàn đã tổ chức các buổi sinh hoạt, tọa đàm, câu lạc bộ với các chủ đề: “Về gới”, “Truyền thông sức khỏe”, “Sức khỏe và sinh sản”, “Vai trò người Phụ nữ trong thế kỷ XXI”,… góp phần tạo ra cách nhìn mới trong nhận thức của các ngành, các cấp về vai trò của người phụ nữ trong cuộc sống đương đại.
Hệ thống truyền thông của Công đoàn ngày càng được bổ sung và phát triển. Trên sóng phát thanh truyền hình của tỉnh, chuyên mục “Người lao động” được phát đều đặn, nêu gương người tốt việc tốt, các phong trào của công nhân viên chức lao động Tiền Giang. Liên đoàn Lao động tỉnh kết hợp với các cơ quan thông tin đại chúng , nhất là Văn phòng đại diện báo Lao động với trang “Công đoàn đồng bằng sông Cửu Long” thường xuyên đưa tin, bài về phong trào công nhân lao động, được người xem theo dõi, đón nhận.
Câu lạc bộ Công đoàn được củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động. Phối hợp với Trung tân giáo dục chính trị và các ngành liên quan, Câu lạc bộ Công đoàn đã tổ chức 28 buổi sinh hoạt cung cấp thông tin thời sự, kiến thức pháp luật giúp cán bộ Công đoàn từng bước nâng cao được chất lượng công tác tuyên giáo. Trong nhiệm kỳ 1998 – 2003, các Liên đoàn Lao động huyện, thị, thành phố, Công đoàn ngành và cơ sở có nhiều hình thức giúp công nhân viên chức, lao động học tập nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp. Các phong trào xây dựng cơ quan văn minh, gia đình văn hóa, các hoạt động văn hóa, thể thao không ngừng được đẩy mạnh ở các ngành, các địa phương và cơ sở, thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của công nhân viên chức lao động, tích cực tham gia các phong trào yêu nước, góp phần tạo nên sự thống nhất trong nhận thức và hành động của công nhân viên chức lao động, tạo diện mạo mới trong đời sống văn hóa của công nhân viên chức lao động và nâng cao hiệu quả của hoạt động Công đoàn.
Nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nhà, trong nhiệm kỳ Khóa VI, Liên đoàn Lao động tỉnh tập trung phát động, duy trì và cụ thể hóa 3 phong trào thi đua do Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam đề ra, thành các phong trào thi đua với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
Ở các doanh nghiệp, Công đoàn các cấp vận động công nhân viên chức lao động tham gia các phương án sản xuất, kinh doanh, cải tiến quản lý, tiết kiệm chi phí, tận dụng khai thác nguyên vật liệu trong việc làm ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, phục vụ tốt cho người tiêu dùng.
Ở các đơn vị hành chánh sự nghiệp, Công đoàn vận động công nhân viên chức lao động thực hiện tốt nội quy, quy chế cơ quan, đảm bảo ngày, giờ công, nâng cao chất lượng từng công việc, cải tiến thủ tục hành chánh, rèn luyện tác phong, thái độ giao tiếp theo tiêu chuẩn của người cán bộ, công chức; hỗ trợ giúp đỡ nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
Các phong trào: “Thi thợ giỏi” của các Công đoàn ngành Xây dựng , ngành May mặc xuất khẩu và ngành Thương mại – Du lịch; phong trào “Thực hiện 12 điều Y đức” của ngành Y tế, phong trào “Giỏi việc trường, đảm việc nhà” của Công đoàn ngành Giáo dục, “Xây dựng người cán bộ, công chức Trung thành, Sáng tạo, tận tụy, gương mẫu” của Công đoàn Viên chức,… đã khơi dậy tiềm năng của tập thể công nhân viên chức lao động, giúp cho doanh nghiệp và các cơ quan ổn định và phát triển.
Từ năm 1998 đến năm 2002 toàn tỉnh có hàng chục ngàn người đạt danh hiệu lao động giỏi, hàng ngàn người đạt chiến sĩ thi đua các cấp, trong đó có 1 người được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lao động” và hàng chục Huân chương lao động dành cho những tập thể có thành tích xuất sắc từ phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới do Nhà nước trao tặng.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII và Nghị quyết của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về “Đổi mới phát triển kinh tế – xã hội, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn”, Liên đoàn Lao động tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo và chọn Công đoàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đầu mối thực hiện kế hoạch liện tịch, liên kết với các ngành để đẩy mạnh phong trào thi đua “Liên kết phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn”, được các ngành, các cấp hưởng ứng, cụ thể hóa thành các phong trào “Phát triển giao thông nông thôn”, “Đưa điện về nông thôn”, “xây dựng xã, ấp văn hóa”, chương trình “Nước sạch nông thôn”, v.v….
Từ những kinh nghiệm chỉ đạo rút ra từ Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vào tháng 12 năm 1999, Công đoàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành Thủy sản, Viện Nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam, Trung tâm Bảo vệ thực vật Phía Nam đã phát huy vai trò nòng cốt, vận động công nhân viên chức lao động thi đua đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tạo ra giống cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao; thực hiện công tác khuyến nông, khuyến ngư; ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật đến với nông dân.
Công đoàn ngành Thủy sản tuy mới tái lập chưa được 4 năm nhưng đã vận động được phong trào nuôi trồng thủy sản phát triển khá đồng bộ với nhiều giống loài đa dạng, phong phú; đồng thời, vận động thành lập được Hội nghề cá tỉnh Tiền Giang, tạo điều kiện thuận lợi để ngành phát huy vai trò, vị trí mũi nhọn trong nền kinh tế tỉnh nhà.
Công đoàn Sở Khoa học Công nghệ – Môi trường tạo mọi điều kiện để có nhiều đề tài khoa học ứng dụng vào sản xuất, đời sống, xử lý chất thải chăn nuôi, cải thiện đáng kể môi trường ở nông thôn.
Công đoàn ngành Giao thông vận tải vận động công nhân viên chức lao động khắc phục mọi khó khăn thi công những công trình cầu đường ở nông thôn, chỉnh trang đô thị giúp nhân dân đi lại và vận chuyển hàng hóa được dễ dàng.
Công đoàn ngành Y tế phục vụ nhân dân vùng xa, vùng sâu phòng trừ dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe cộng đồng.
Công đoàn Điện lực thực hiện chương trình “Đưa điện về nông thôn” để phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp.
Công đoàn ngành Thương mại – Du lịch tham gia mở rộng mạng lưới dịch vụ thương mại, tập trung đưa hàng hóa về phục vụ nông thôn.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngân hàng Phục vụ người nghèo đã vận động công nhân viên chức cải tiến về thủ tục vay vốn, không để phiền hà cho bà con nông dân.
So với nhiệm kỳ trước, phong trào thi đua “Liên kết phục vụ nông nghiệp và nông thôn” đã có bước huyển biến tốt. Phong trào đã ứng dụng cải tiến giống cây trồng vật nuôi, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm các mô hình nông dân sản xuất giỏi, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp gắn với thị trường tiêu thụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, chăm sóc sức khỏe, thực hiện chính sách “Xóa đói giảm nghèo”, nâng cao dân trí, cải thiện đời sống nông dân.
Xác định chức năng hàng đầu của Công đoàn là chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động, trong nhiệm kỳ Khóa VI, Công đoàn các cấp đã phát huy tốt vai trò kiểm tra, giám sát, tích cực vận động công nhân viên chức lao động tập trung thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, tạo môi trường dân chủ, ổn định cho sự phát triển bền vững ở cơ quan, doanh nghiệp, đồng thời đấu tranh với những hành vi quan liêu, lãng phí, tham nhũng, bảo vệ tài sản Nhà nước.
Để Công đoàn tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, các cấp Công đoàn đã đóng góp ý kiến xây dựng 20 văn bản dự thảo của Chính phủ, các Bộ ngành và của Tổng Liên đoàn có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động và hoạt động Công đoàn. Đồng thời, quan tâm tổng hợp các ý kiến phản ánh của cơ sở để kiến ngị với Tổng Liên đoàn xem xét giải quyết. Hàng năm, Công đoàn các cấp phối hợp với các ngành chức năng tiến hành kiểm tra việc thực hiện Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn và các chính sách, chế độ liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động ở hàng trăm lượt doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý những trường hợp vi phạm, góp phần ngăn ngừa và hạn chế được tranh chấp lao động, không để xảy ra đình công.
Thực hiện quy chế dân chủ trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước đúng với tinh thần Nghị định số 71 và 07 của Chính phủ, Công đoàn các cấp chủ động phối hợp với lãnh đạo đồng cấp tổ chức Đại hội Công nhân viên chức, Hội nghị Cán bộ Công chức và bầu Ban Thanh tra nhân dân, nhiều nơi đã cùng với chuyên môn bàn biện pháp giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động; tham gia với các ngành chức năng giám sát việc thực hiện Bộ Luật Lao động, các chế độ chính sách về tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Đặc biệt, đối với những đơn vị lao động nữ, Công đoàn tổ chức khảo sát việc thực hiện Pháp luật, qua đó, đã góp ý và được các đơn vị thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe lao động nữ, duy trì việc khám sức khỏe định kỳ, cải thiện điều kiện làm việc, quan tâm hơn đến việc đào tạo, tổ chức học tập, nâng cao tay nghề, thi thợ giỏi và tổ chức tham quan, nghỉ mát… nhằm tái tạo sức lao động cho lao động nữ.
Ban Thanh tra nhân dân trong các cơ quan, doanh nghiệp, tuy vẫn còn gặp một số khó khăn trong cơ chế hoạt động, nhưng nhìn chung, đã từng bước củng cố, phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trong việc tham gia giám sát quy chế làm việc, thực hiện các chế độc chính sách của người lao động ở từng cơ quan, doanh nghiệp, công sở, bệnh viện, trường học, trở thành chỗ dựa của công nhân viên chức lao động trong đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.
Cùng với việc tổ chức thành công “Tuần lễ Quốc gia An toàn Vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ”, hàng năm, tổ chức Công đoàn đã có bước tiến mới trong việc liên kết với chính quyền chăm lo công tác bảo hộ lao động, kiểm tra giám sát thực hiện chế độ chính sách về bảo hộ lao động. Liên đoàn Lao động tỉnh đã phối hợp với ngành Y tế và Công an Phòng cháy chữa cháy thường xuyên tuyên truyền, huấn luyện về bảo hộ lao động, phòng chống cháy nổ cho mạng lưới an toàn vệ sinh viên và hàng chục ngàn lượt công nhân lao động.
Công tác tư vấn giới thiệu việc làm đã có sự tiến bộ. Liên đoàn Lao động tỉnh kết hợp với các trung tâm dịch vụ giới thiệu việc làm ở thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm giới thiệu việc làm Tiền Giang đã giới thiệu hàng trăm lao động đến làm việc ở Khu Công nghiệp, Khu chế xuất.
Các hoạt động xã hội của Công đoàn như “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Phụng dưỡng Bà mẹ Việt nam anh hùng”, “Tấm lòng vàng”, v.v… đã đem lại những kết quả đáng trân trọng. Trong nhiệm kỳ 1998 – 2003, từ nguồn quỹ trợ vốn của Liên đoàn Lao động tỉnh do sự đóng góp của công nhân viên chức lao động đã giải quyết trên 5.000 lượt người vay để làm kinh tế gia đình với số tiền trên 6,5 tỷ đồng. Ngoài ra, công nhân viên cức lao động ở các Công đoàn huyện, thị, ngành, cơ quan đã nhận phụng dưỡng hàng chục Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đóng góp xây nhà tình thương, cứu trợ đồng bào bị lũ lụt, bị lốc xoáy, chăm sóc các cháu mồ côi, cơ nhỡ ở các mái ấm tình thương, tồ chức đưa đón con em lao động nghèo thi đại học, v.v…
Công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức Công đoàn được Công đoàn các cấp đặc biệt coi trọng. Trong nhiệm kỳ Khóa VI, Liên đoàn Lao động tỉnh có Nghị quyết về công tác cán bộ và đổi mới phương thức vận động, tập hợp công nhân lao động theo hướng đa dạng hóa trong các thành phần kinh tế. Liên đoàn Lao động tỉnh đã tập trung kiện toàn về mặt tổ chức. Theo đó, sau mỗi kỳ Đại hội tiến hành củng cố, sắp xếp lại bộ máy trong hệ thống cho phù hợp với tình hình mới, đảm bảo nâng hiệu quả trong hoạt động Công đoàn, như: Giải thể Ban Cán sự để thành lập Liên đoàn Lao động cấp huyện; thành lập Công đoàn ngành Thủy sản; chuyển Công đoàn Giáo dục, Công đoàn cơ sở Chi cục Thuế cấp huyện về Liên đoàn Lao động địa phương quản lý. Đồng thời, cải tiến lối làm việc, khắc phục từng bước tình trạng làm việc nặng về hành chánh, giấy tờ. tăng cường cán bộ đi cơ sở, theo dõi, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của công nhân viên chức lao động, giữ mối quan hệ mật thiết với cơ sở từ tỉnh đến huyện, ngành.
Đi đôi với việc kiện toàn về tổ chức, công tác xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh cũng đạt kết quả đáng kể. Trên cơ sở quy định của Tổng liên đoàn Việt Nam, Liên đoàn Lao động tỉnh đã cụ thể hóa tiêu chuẩn xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, thể hiện qua các bảng điểm cho từng loại hình Công đoàn cơ sở, có sự phân cấp cho Công đoàn ngành, huyện kiểm tra để công nhận. Hàng năm, thành lập các đoàn kiểm tra, khảo sát, đánh giá xếp loại khen thưởng cho những đơn vị hoạt động tốt. Nhờ có tổ chức, quy định cụ thể, chặt chẽ và nội dung chấm điểm tương đối phù hợp nên chất lượng hoạt động Công đoàn cơ sở ngày một nâng lên.
Công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Công đoàn luôn được Liên đoàn Lao động tỉnh quan tâm. Trong 5 năm (1998 – 2002), Liên đoàn Lao động tỉnh đã tổ chức 219 lớp tập huấn cho 3.971 cán bộ Công đoàn. Tính đến năm 2002, toàn hệ thống có 4.294 cán bô Công đoàn (trong đó cán bộ không chuyên trách có 4.191 người, cán bộ chuyên trách có 95 người, có 17 đồng chí do chuyên môn trả lương). Trong số 78 cán bộ chuyên trách do Công đoàn trả lương có 35 đồng chí có trình độ đại học, 4 đồng chí có trình độ cao đẳng, 6 đồng chí có trình độ cử nhân chính trị. Số còn lại đang sắp xếp đưa đi đào tạo.
Cùng với việc kiện toàn về tổ chức, công tác xây dựng và phát triển đoàn viên ở khu vực kinh tế tư nhân đã đạt được những kết quả mới. Đến năm 2003, toàn tỉnh đã thành lập được 140 Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn với 8.135 đoànviên, so với năm 1998 tăng 13,13%. Tuy chất lượng hoạt động của các đơn vị này chưa cao nhưng đã tạo điều kiện cho công nhân lao động hỗ trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, tham gia tốt vào việc giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương.
Nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong hệ thống chính trị, các cấp Công đoàn đã vận động công nhân viên chức lao động đi đầu trong việc tham gia xây dựng Đảng, bộ máy chính quyền ở địa phương. Trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương VI (lần 2) Khóa VIII, bằng sự nhập cuộc lớn, các cấp Công đoàn đã phối hợp chặt chẽ với các cấp Ủy, vận động công nhân viên chức đóng góp xây dựng Đảng, trở thành phong trào rộng rãi và mang tính thường xuyên ở cơ sở; đồng thời thông qua Đại hội Công nhân viên chức, Hội nghị Cán bộ công chức ở các cơ quan doanh nhiệp hàng năm và tổ chức của Ban Thanh tra Nhân dân, người lao động đã mạnh dạn đóng góp về lề lối làm việc, quản lý của cơ quan, đơn vị; phát huy quyền làm chủ của mình trong đấu tranh chống tiêu cực. Hầu hết các ý kiến, kiến nghị đều được các cấp lãnh đạo, chuyên môn tiếp nhận, giải quyết và thức hiện tốt, góp phần xây dựng xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ ngày một tốt hơn.
Công tác phát triển Đảng trong công nhân viên chức lao động đạt nhiều kết quả đáng kể. Từ năm 1998 đến năm 2003, các cấp Công đoàn đã giới thiệu các cấp Ủy xem xét kết nạp 2.645 đồng chí từ 4.854 công đoàn viên ưu tú đứng vào hàng ngũ của Đảng, trở thành lực lượng nòng cốt đi đầu trong mọi lĩnh vực hoạt động ở cơ sở.
Thực hiện đổi mới công tác quản lý tài chánh theo hướng thu đủ, thu đúng. Trong nhiệm kỳ 1998 – 2003, hoạt động tài chánh của Công đoàn có nhiều cải tiến, theo phương thức “Phân cấp quản lý phù hợp mà hiệu quả”, nhờ vậy, công tác dự toán, thu – chi kinh phí Công đoàn đều thực hiện tiết kiệm nhưng đảm bảo phục vụ tốt cho hoạt động ở cơ sở. Việc áp dụng mức phân bổ mức phân bổ kinh phí theo quy định của Tổng Liên đoàn đối với Công đoàn cấp huyện và những cơ sở ít đoàn viên gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với sự chủ động, ngoài nguồn ngân sách, các cấp Công đoàn đã tranh thủ thêm kinh phí từ phía chính quyền và lãnh đạo chuyên môn để phục vụ tốt cho phong trào ở cơ sở.
Sau một thòi gian củng cố, đầu tư nâng cấp, trang bị mới, Công ty Khách sạn – Du lịch Công đoàn đã từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả. Ngoài nguồn kinh doanh khách sạn, công ty đã phát triển nguồn thu từ hoạt động du lịch lữ hành. Để cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, công ty đã từng bước chuẩn hóa đội ngũ phục vụ, không ngừng cải tiến phương thức phục vụ, nhờ đó, lợi nhuận từng năm đã tăng lên, góp phần nâng cao đời sống, giải quyết việc làm cho người lao động đáp ứng phần nào nhu cầu của xã hội.
Từ mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội VI Công đoàn Tiền Giang đề ra, Công đoàn các cấp trong tỉnh đã bám sát chương trình toàn khóa của Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh để xây dựng chương trình, kế hoạch công tác với những nội dung, biện pháp cụ thể; trong đó chọn ra những vấn đề trọng tâm, trong điểm cần tập trung, phân công cán bộ bám địa bàn cơ sở để kịp thời tham mưu cho Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh chỉ đạo các cấp Công đoàn thực hiện.
Để việc tổ chức thực hiện đạt kết quả, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Công đoàn các cấp thỏa thuận xây dựng quy chế phối hợp với lãnh đạo chuyên môn trong tổ chức và hoạt động phong trào. Thường xuyên củng cố, nâng cao chất lượng sinh hoạt, hội họp, tạo sự đoàn kết, gắn bó giữa cán bộ và đoàn viên. Trong chỉ đạo, luôn bám sát vào thực tiễn cơ sở, lấy Công đoàn bộ phận, tổ Công đoàn làm nền tảng, thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo, sơ kết, tổng kết để đúc kết kinh nghiệm chỉ đạo phong trào. Đồng thời, Liên đoàn Lao động tỉnh ký kết kế hoạch liên tịch với một số ngành trong tỉnh. Hàng năm đều tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng tiếp theo, cơ bản là việc tổ chức thực hiện các nội dung phong trào “Xanh – Sạch – Đẹp, Bảo đảm an toàn – Vệ sinh lao động”, kiểm tra việc thực hiện Pháp luật Lao động ở các doanh nghiệp; củng cố các bước tiến hành xây dựng cơ quan văn minh; đẩy mạnh các hoạt động thể dục thể thao trong công nhân viên chức lao động; duy trì tốt việc tổ chức Hội thi “Sáng tạo – kỹ thuật” 2 năm 1 lần; phát triển ngày càng mạnh công tác phối hợp phổ biến pháp luật, xây dựng phong trào phổ biến an ninh trật tự; xây dựng lực lượng tự vệ cơ quan, vận động thanh niên trong diện lứa tuổi thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự và tăng cường công tác hậu phương quân đội.
Đánh giá về hoạt động Công đoàn trong nhiệm kỳ Khóa VI (1998 – 2003), Báo cáo của Ban chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang tại Đại hội VII ghi rõ: “Năm năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội VI Công đoàn Tiền Giang, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và chỉ đạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tổ chức Công đoàn tỉnh nhà đã vận động công nhân viên chức lao động phát huy truyền thống cách mạng trong thời kỳ đổi mới, phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, cơ bản hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ công nhân viên chức lao động và tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, tạo tiền đề cùng cả nước bước vào thời kỳ mới: đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
X X
X
Chặng đường 5 năm (1998 – 2003) của một nhiệm kỳ Đại hội không dài, nhưng đây là chặng đường mà công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo mới đi qua hơn 10 năm, là đại hội chuyển tiếp giữa 2 thế kỷ, trong bối cảnh quốc tế có những biến động to lớn.
Với tinh thần chủ động vươn lên bằng nhiều hình thức phong phú, thiết thực, các cấp Công đoàn trong tỉnh đã tập hợp, động viên đông đảo công nhân viên chức lao động hưởng ứng tích cực các phong trào hành động cách mạng, thi đua yêu nước do Đảng, Nhà nước và Công đoàn phát động, tăng cường và đẩy mạnh các hoạt động xã hội, tiêu biểu là phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phong trào thi đua liên kết phục vụ sản xuất nông nghiệp; phong trào “Xanh – Sạch – Đẹp, Bảo đảm an toàn; Vệ sinh lao động”; phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ công nhân viên chức, lao động; phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”; nhận phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng; xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương; quyên góp ủng hộ đồng bào thiên tai, lũ lụt, v.v…
Thực hiện chức năng của mình theo luật pháp quy định, các cấp Công đoàn đã tập hợp giáo dục đoàn viên, công nhân viên chức, lao động nâng cao giác ngộ chính trị, giác ngộ giai cấp, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng tạo nên yếu tố ổn định xã hội để phát triển sản xuất. Đồng thời chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động. Hàng năm thông qua Đại hội công nhân viên chức, Hội nghị cán bộ – Công chức vận động công nhân viên chức lao động phát huy tốt quyền làm chủ, tập hợp trí tuệ của người lao động tham gia quản lý cơ quan, doanh nghiệp, tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, giải quyết tốt các chế độ, chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động cho người lao động.
Để làm được điều đó, trong nhiệm kỳ 1998 – 2003, các cấp Công đoàn tỉnh Tiền Giang đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng phát triển tổ chức Công đoàn ở các thành phần kinh tế, chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, nâng cao năng lực và bản lĩnh đội ngũ cán bộ Công đoàn, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, chú trọng kiện toàn tổ chức – nhất là Công đoàn cơ sở, quan tâm xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh, đến năm 2003 đã có 65% Công đoàn cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh, số Công đoàn yếu kém giảm dần. Toàn tỉnh đã thành lập được 140 Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn, với 8.135 đoàn viên, so với nhiệm kỳ trước có những tiến bộ đáng kể.
Với những thành tích kể trên, Liên đoàn Lao động tỉnh đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng nhất. Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn tặng cờ Thi đua xuất sắc trong nhiệm kỳ. Đây là phần thưởng cao quý nhất dâng lên Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần thứ VII nhiệm kỳ 2003 – 2008.
- ĐẠI HỘI CÔNG ĐOÀN TỈNH TIỀN GIANG LẦN VII VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM KỲ 2003 – 2008:
BỐI CẢNH LỊCH SỬ:
Những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, nhiều khu vực trên thế giới bị lâm vào những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo, khủng bố, can thiệp lật đổ, chạy đua vũ trang với tính chất ngày càng phức tạp và nghiêm trọng. Thế giới đang xuất hiện những yếu tố của một cuộc khủng hoảng kinh tế, mà mở đầu là sự sụp đổ của một số ngân hàng lớn ở Mỹ và đồng đô la bị yếu dần, một số nước châu Âu rơi vào tình trạng nợ công khó trả nổi, châu Á còn trong cuộc khủng hoảng về tài chánh – kinh tế, thiên tai liên tiếp xảy ra tại nhiều quốc gia. Thế giới tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định.
Đối với nước ta, công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng, nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định (GDP tăng bình quân hàng năm trên 8%), đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Văn hóa – xã hội có những tiến bộ. Tình hình chính trị – xã hội tiếp tục ổn định, tuy nhiên, đất nước phải đối mặt với nhiều thách thức. Với quyết tâm “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp”, Đảng và nhân dân ta phát huy mọi tiềm năng, phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đã tạo cho đất nước ta có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế, nước ta đang thoát khỏi nhóm nước chậm phát triển và đang trở thành nước có thu nhập bình quân đầu người vào loại trung bình của thế giới.
Ở trong tỉnh, từ năm 2001 đến 2005, nền kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh và chất lượng cao hơn trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở nông thôn được cải thiện; sản lượng lương thực hàng năm đạt trên 1,3 triệu tấn, sản xuấ nông nghiệp và xây dựng tăng hơn 10%/năm; khu vực thủy – hải sản tăng 8%/năm; khu vực dịch vụ tăng 15%/năm; đời sống của nhân dân không ngừng được tăng lên; nhịp độ tăng GDP bình quân trên 9%/năm; các hoạt động văn hóa – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội được đảm bảo; công tác vận động quần chúng ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả; việc xây dựng hệ thống chính trị và xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh được các cấp ủy thường xuyên quan tâm. Tiền Giang được Chính phủ quyết định là một trong các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tạo ra những thời cơ, triển vọng phát triển, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.
Nhiệm kỳ Khóa VI (1998 – 2003) của Công đoàn Tiền Giang đã gặt hái những kết quả rất đáng trân trọng. Hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội VI đều đạt và vượt. Thành tích nổi bật của phong trào công nhân viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn nhiệm kỳ 1998 – 2003 không chỉ là quan tâm bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức và người lao động, mà còn thực hiện tốt chức năng là trường học xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân, thường xuyên đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên, thu hút đông đảo công nhân viên chức, lao động hưởng ứng, tạo ra những động lực cách mạng to lớn hướng vào các mục tiêu: năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động; với kết quả là được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng nhất, Đoàn Chủ tịch Liên đoàn Lao động tặng cờ thi đua xuất sắc trong nhiệm kỳ. Cán bộ, công nhân viên chức và người lao động Tiền Giang đã cắm được mốc son và dấu ấn tốt đẹp trên chặng đường lịch sử của phong trào công nhân viên chức lao động và hoạt động Công đoàn tỉnh Tiền Giang.
ĐẠI HỘI VII:
Từ đầu năm 2003, không khí chuẩn bị Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần thứ VII ngày một khẩn trương. Các Tiểu ban công tác được Ban Thường vụ phân công như Tiểu ban nội dung (biên soạn văn kiện Đại hội), Tiểu ban hậu cần (chuẩn bị hội trường, đại biểu, khách mời…), Tiểu ban nhân sự … đều làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, đặc biệt, văn kiện trình Đại hội được Công đoàn các cấp quan tâm, đóng góp, bổ sung, sửa chữa để đi đến hoàn thiện, trước khi trình Thường vụ Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Được sự cho phép của Thường vụ Tỉnh ủy và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang tiến hành Đại hội Công đoàn Tiền Giang lần thứ VII trong 2 ngày (ngày 3 và 4 tháng 7 năm 2003) tại hội trường Ấp Bắc, trung tâm của thành phố Mỹ Tho.
Về dự Đại hội là những đại biểu được Đại hội Công đoàn ngành, huyện, thị, thành phố bầu chọn đại biểu dự Đại hội cấp trên, thay mặt cho 79.643 công nhân viên chức , lao động trong tỉnh. Đại hội đã vinh dự đón tiếp đồng chí Đặng Ngọc Chiến, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Việt Nam; đồng chí Trần Thị Kim Cúc, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Hữu Chí, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh đến dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội; các đồng chí thay mặt Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh bạn; các đồng chí đại diện cho Hội đồng Nhân dân tỉnh, các đồng chí thay mặt cho Thành ủy Mỹ Tho, các đồng chí lãnh đạo các huyện, thị và các ngành trong tỉnh.
Với khẩu hiệu: “Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh; chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức, lao động góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước”, Đại hội đã tổng kết đánh giá phong trào công nhân, viên chức – lao động và hoạt động Công đoàn nhiệm kỳ VI (1998 – 2003), nêu bật những thành tựu, khuyết điểm tồn tại, nguyên nhân của những tồn tại yếu kém và rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo thực hiện.
Đại hội đã định ra phương hướng, nhiệm vụ của phong trào công nhân, viên chức – lao động và hoạt động Công đoàn trong nhiệm kỳ 2003 – 2008 với những nội dung sau:
– Về mục tiêu tổng quát: “Chủ động góp phần cùng Đảng và chính quyền xây dựng đội ngũ công nhân viên chức, lao động lớn mạnh về mọi mặt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương; không ngừng tăng cường củng cố liên minh công nhân, nông dân, trí thức, nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân. Phát động các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và hiệu quả trong công nhân viên chức, lao động, xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh góp phần thực hiện thắng lới các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương”.
– Về phương hướng, Đại hội xác định:
“Tiếp tực đổi mới và đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp trong công nhân viên chức, lao động, đáp ứng yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại địa phương.
Chăm lo đời sống và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức, lao động; nâng cao vai trò làm chủ của công nhân viên chức, lao động tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Phát triển mạnh tổ chức Công đoàn trong các thành phần kinh tế, đa dạng hóa hình thức tập hợp công nhân viên chức, lao động vào tổ chức Công đoàn; đẩy mạnh các hoạt động xã hội bằng nhiều hình thức.
Vận động công nhân viên chức, lao động tích cực bảo vệ Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh”.
Đại hội đề ra 7 nhiệm vụ chủ yếu của Công đoàn từ năm 2003 đến 2008 như sau:
- Tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục (quan tâm đến công nhân viên chức lao động nữ), đẩy mạnh giáo dục truyền thống, giáo dục về giới, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ.
- Tham gia quản lý, kiểm tra giám sát có hiệu quả thực việc hiện pháp luật, chế độ chính sách có liên quan đến công nhân viên chức lao động. Vận động nữ công nhân viên chức lao động học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao kiến thức về xã hội, pháp luật. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động khi bị xâm phạm.
- Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo đạt được kết quả thiết thực và hiệu quả trong công nhân viên chức lao động, góp phần thực hiện tốt các chỉ tiêu kinh tế – xã hội của tỉnh đề ra hàng năm.
- Đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên, xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh; tiếp tục đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn.
- Tích cực vận động công nhân viên chức lao động tham gia xây dựng Đảng, chính quyền các cấp.
- Thực hiện tốt công tác quản lý tài chính, tài sản Công đoàn theo quy định của Nhà nước và của Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam, góp phần phục vụ tốt cho hoạt động Công đoàn ở cơ sở.
- Tăng cường hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Công đoàn, thực hiện tốt chức năng theo điều lệ quy định. Phối hợp với các ngành chức năng giải quyết kịp thời các đơn khiếu tố của công nhân viên chức, lao động.
Để các mục tiêu của Đại hội được thực hiện, Đại hội đề ra Nghị quyết của Đại hội và kêu gọi toàn thể cán bộ, đoàn viên và công nhân viên chức, lao động “Hãy phát huy truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân, một lòng tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, phát huy tinh thần tự lực tự cường, khắc phục mọi khó khăn, thử thách trong sản xuất, đời sống, tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, đi đầu trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội đã nghe các phát biểu chỉ đạo của đồng chí Đặng Ngọc Chấn, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; của đồng chí Trần Kim Cúc, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy và của đồng chí Nguyễn Hữu Chí, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh. Thay mặt Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đồng chí Đặng Ngọc Chấn đã tặng Cờ thi đua Xuất sắc trong nhiệm kỳ của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho đại diện Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Khóa VII nhiệm kỳ 2003 – 2008 gồm 35 ủy viên. Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ gồm 11 ủy viên. Đồng chí Phạm Văn Khiết tiếp tục được Đại hội tín nhiệm bầu làm Chủ tịch; đồng chí Trương Thị Bé Sáu và đồng chí Trương Văn Hiền được bầu Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động Tiền Giang nhiệm kỳ 2003 – 2008 (Đến ngày 17 tháng 1 năm 2006, đồng chí Phạm Văn Khiết do yêu cầu công tác được Tỉnh ủy điều sang nhận công tác tại Hội đồng Nhân dân tỉnh. Ngày 28 tháng 2 năm 2006, Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động Tiền Giang bầu bổ sung đồng chí Trương Thị Bé Sáu giữ chức vụ Chủ tịch Liên đoàn Lao động Tiền Giang, ngày 01 tháng 10 năm 2006 bầu đồng chí Lê Minh Hùng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động Tiền Giang) [16].
Đại hội VII Công đoàn tỉnh Tiền Giang có ý nghĩa đặc biệt đối với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Tiền Giang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Đại hội diễn ra trong niềm phấn khởi, tin tưởng của công nhân viên chức lao động và tổ chức Công đoàn tỉnh với những thành tựu sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới cùng những cơ chế, chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Đảng bộ và nhân dân Tiền Giang đã ra sức phát huy nội lực, đoàn kết, khắc phục khó khăn, phấn đấu vượt qua những thử thách do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chánh – tiền tệ trong khu vực, duy trì và phát triển kinh tế, tạo ra những tiền đề thuận lợi cơ bản, đưa tỉnh bước vào giai đoạn phát triển toàn diện trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Thành công của Đại hội đã thể hiện sự đoàn kết thống nhất cao của đoàn viên, công nhân viên chức lao động trong tỉnh, quyết tâm xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX Đảng Công sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội VIII tỉnh Đảng bộ Tiền Giang và Nghị quyết Đại hội IX Công đoàn Việt Nam.
NGHỊ QUYẾT ĐI VÀO CUỘC SỐNG:
Sau Đại hội Công đoàn lần VII, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức đợt sinh hoạt nghiên cứu học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội trong hệ thống tổ chức Công đoàn để các cấp Công đoàn xây dựng chương trình hành động.
Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII Công đoàn Tiền Giang diễn ra trong bối cảnh có sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa một cách mạnh mẽ. Đội ngũ công nhân viên chức, lao động trong tỉnh tiếp tục phát triển về số lượng, đa dạng về cơ cấu và không đồng đều giữa các ngành. Số lao động nông nghiệp chuyển dịch sang khu vực công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng, đáng kể là sự chuyển dịch lao động ra các tỉnh lân cận ở các thành phần kinh tế bao gồm cả lao động giản đơn lẫn lao động có tay nghề và những chuyên viên giỏi. Nguyên nhân chính của sự chuyển dịch này bắt nguồn từ nhu cầu cuộc sống, việc làm và thu nhập của người lao động.
Trong tổng số 79.643 công nhân viên chức, lao động đang làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế, có trên 65% có tuổi đời dưới 35, tuổi nghề từ 5 đến 10 năm. Đây thực sự là là một lực lượng trẻ, trụ cột của nền kinh tế.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và trước yêu cầu đổi mới, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của đội ngũ công nhân viên chức lao động ngày càng được nâng lên, đa số có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, không ngừng vươn lên trong các lĩnh vực công tác. Phần lớn cán bộ, công chức trong khu vực Nhà nước được đào tạo chuẩn hóa về học vấn, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ đang góp phần tích cực trong việc nghiên cứu, tham mưu quản lý, điều hành góp phần tích cực trong sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Việc thực hiện lộ trình cải cách tiền lương ở khu vực hành chánh sự nghiệp và điều chỉnh mức lương tối thiểu ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước nước ngoài phần nào đã tạo sự phấn khởi trong công nhân viên chức lao động. Qua khảo sát cho thấy bình quân thu nhập của công nhân lao động trong các Cụm công nghiệp, Khu công nghiệp 1.400.000 đồng/người/tháng; trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 2.500.000 đồng/người/tháng; cán bộ công chức trong cơ quan hành chánh sự nghiệp bình quân 1.800.000 đồng/người/tháng. Tuy nhiên, do giá cả hàng tiêu dùng liên tục tăng nên mức tăng thu nhập của công nhân viên chức lao động vẫn còn nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Mặt khác, đội ngũ công nhân viên chức lao động vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Trình độ tay nghề, bậc thợ của công nhân trực tiếp sản xuất thuộc các thành phần kinh tế, nhìn chung còn thấp. Tỷ lệ lao động giản đơn chưa qua đào tạo tăng. Qua khảo sát, ở khu vực sản xuất kinh doanh, công nhân lao động có trình độ tiểu học và trung học cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học chiếm 75%, có trên 26% chưa qua đào tạo chuyên môn, trên 50% chưa qua đào tạo về chính trị. Thể lực của một bộ phận công nhân lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất phát triển.
Ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, một bộ phận công nhân lao động, do thời gian, điều kiện lao động và tính chất công việc nên ít có điều kiện sinh hoạt chính trị, ý thức giác ngộ giai cấp, hiểu biết về Đảng về Công đoàn và kiến thức pháp luật còn hạn chế; điều kiện làm việc ở những đơn vị sản xuất kinh doanh lớn được đầu tư khá, còn lại công nhân lao động phải làm việc trong điều kiện môi trường vệ sinh chưa đảm bảo, nhiều nơi xảy ra tình trạng tăng giờ, tăng ca trái quy định, làm giảm sút sức khỏe của người lao động. Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì thu nhập của người lao động tương đối cao; còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, làm ăm kém hiệu quả thì thu nhập còn thấp và không ổn định. Nhiều đơn vị trốn tránh việc đóng bảo hiểm Xã hội cho người lao động, có nơi nợ bảo hiểm Xã hội kéo dài, hoặc chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm của người lao động.
Tuy đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng công nhân viên chức lao động luôn giữ vững bản chất giai cấp và tính tiên phong gương mẫu trong lao động sản xuất, đi đầu trong những hoạt động xã hội, đền ơn đáp nghĩa, tạo thành phong trào tự giác, sâu rộng trong quần chúng, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần, nâng cao ý thức trách nhiệm của công nhân viên chức lao động trước công đồng và xã hội.
Nguyện vọng chung của công nhân viên chức lao động hiện nay là mong muốn đất nước luôn ổn định về chính trị, an ninh quốc phòng được giữ vững, kinh tế – xã hội ngày càng phát triển; các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng được đảm bảo, có việc làm ổn định, thu nhập tương xứng với sức lao động, đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình; mong muốn Nhà nước tạo điều kiện để được học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến.
Công nhân viên chức lao động còn lo lắng về tình trạng kỷ cương phép nước chưa được tôn trọng, bất bình với tệ nạn tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, vi phạm quyền dân chủ của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên; chưa yên tâm trước những tệ nạn xã hội đang ngày càng diễn biến phức tạp, vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn lao động, tình hình đình công, lãng công làm ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển của đất nước; hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng trong tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu để thu hút các nhà đầu tư.
Tâm trạng chung của công nhân khu vực kinh tế ngoài quốc doanh lo lắng về việc làm, thu nhập không ổn định, điều kiện và môi trường làm việc kém, cường độ lao động cao, vì thế, mong muốn có việc làm và cuộc sống ổn định.
Để mục tiêu: “Chủ động góp phần cùng Đảng và chính quyền xây dựng đội ngũ công nhân viên chức lao động lớn mạnh về mọi mặt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương, không ngừng củng cố công nhân, nông dân, trí thức nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương” thành hiện thực, Liên đoàn Lao động tỉnh tập trung lãnh đạo các cấp Công đoàn trong tỉnh thực hiện 7 nhiệm vụ chủ yếu được Đại hội Công đoàn lần thứ VII thông qua.
Đối với công tác tuyên truyền giáo dục:
Trên cơ sở thực tiễn của đời sống xã hội, với phương châm hướng về cơ sở, các cấp Công đoàn đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục trong công nhân viên chức lao động với sự đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động. Mục tiêu trong tâm được xác định là xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh.
Hàng năm, căn cứ vào chỉ đạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Lao động tỉnh chủ động xây dựng kế hoạch, chỉ đạo các cấp Công đoàn tranh thủ sự lãnh đạo của cấp Ủy, phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo chuyên môn thường xuyên tổ chức cho công nhân viên chức lao động học tập, nghiên cứu đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nổi bật là các đợt sinh hoạt chính trị, vận động lấy ý kiến công nhân viên chức lao động đóng góp dự thảo văn kiện Đại hội X của Đảng, học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Khóa IX, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Tiền Giang Khóa VIII, 3 bài giáo dục chính trị cơ bản cho công nhân viên chức lao động do Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên soạn. Các chuyên đề: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Việt Nam chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới”… đã thu hút đông đảo công nhân viên chức lao động tham gia. Ngoài ra, công nhân viên chức lao động còn tích cực hưởng ứng các cuộc thi do các cấp Công đoàn trong tỉnh phát động, như: Hội thi kiến thức pháp luật; Thi tìm hiểu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao động; Hội thi an toàn – vệ sinh lao động; Phòng chống cháy nổ; Hội thi viết ý tưởng, giải pháp thực hiện cải cách Hành chánh; Hội thi báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hổ Chí Minh; Hội thi tuyên truyền viên giỏi về an toàn giao thông … Đặc biệt, năm 2006, Liên đoàn Lao động tỉnh đã tham mưu với Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị 04 – CT/TU về việc “Xây dựng đội ngũ công nhân viên chức lao động và tổ chức Công đoàn trong tình hình mới”, tạo sự chuyển biến về mặt nhận thức trong hệ thống chính trị, giúp tổ chức Công đoàn có điều kiện đẩy mạnh công tác giáo dục cính trị tư tưởng trong hệ thống Công đoàn.
Nhân các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước và địa phương, nhất là ngày thành lập Công đoàn Việt Nam hàng năm, các cấp Công đoàn đã tổ chức nhiều hoạt động giáo dục truyền thống, qua đó đã bồi đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước, khơi dậy sức mạnh cội nguồn, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Thực hiện kế hoạch liên tịch giữa Liên đoàn Lao động tỉnh với 2 ngành Thể dục Thể thao và Văn hóa Thông tin, Hội thao và Hội diễn Công nhân viên chức lao động toàn tỉnh được tổ chức định kỳ hàng năm, góp phần duy trì và phát triển phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao và phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, đáp ứng yêu cầu thi đấu thể thao thành tích cao, tham gia các cuộc hội thao khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đạt kết quả tốt. Các cuộc Hội thao trong tỉnh đã thu hút gần 20.000 lượt vận động viên tham gia. Trong 2 năm (2005 – 2006) lực lượng công nhân viên chức lao động Tiền Giang tham gia Hội thi “Nét đẹp tuổi 30” cấp khu vực được giải Nhì toàn đoàn.
Hoạt động văn nghệ với định kỳ Liên hoan nghệ thuật quần chúng huyện, ngành hàng năm đã lôi cuốn 7.659 lượt diễn viên tham gia trong 52 cuộc Liên hoan văn nghệ diễn ra trong toàn tỉnh.
Công tác xây dựng cơ quan, doanh nghiệp văn hóa được các cấp Công đoàn quan tâm thực hiện theo 5 nội dung tiêu chuẩn đăng ký. Hàng năm có trên 80% cơ quan, doanh nghiệp được công nhận “cơ quan văn minh”, “doanh nghiệp văn minh”. Năm 2004, Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp với sở Văn hóa – Thông tin tổ chức Hội nghị tổng kết 5 năm phong trào xây dựng cơ quan, doanh nghiệp văn hóa theo từng loại hình để có cơ sở triển khai rộng trên phạm vi toàn tỉnh.
Công tác truyền thông Công đoàn trên các phương tiện thông tin cũng được quan tâm dúng mức. các cấp Công đoàn trong tỉnh tiếp tục phối hợp với đài Phát thanh – Truyền hình thực hiện chuyên mục “Người lao động” phát hình 2 kỳ/tháng, phát thanh 4 kỳ/tháng trên đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh. Trên các đài phát thanh cấp huyện, thành phố, thị xã và trên báo Ấp Bắc thường xuyên có tin, bài về hoạt động công đoàn và chân dung người lao động. Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp cùng báo Ấp Bắc, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh tổ chức các cuộc thi viết về “Chân dung người lao động và cán bộ Công đoàn ngày nay”, sáng tác các ca khúc, ảnh chân dung về người lao động; duy trì và phát hành tờ “Thông tin Công đoàn” phát hành hàng quý với số lượng 1.300 tờ/ kỳ.
Để góp phần nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp cho công nhân viên chức lao động, các cấp Công đoàn đã tham gia với chính quyền, lãnh đạo chuyên môn đề ra kế hoạch vận động công nhân viên chức lao động học tập chính trị, ngoại ngữ, tin học… từ đó, trình độ học vấn, nghề nghiệp của công nhân viên chức lao động được nâng lên so với trước. Riêng trung tâm Giới thiệu Việc làm và Dạy nghề thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh đã tư vấn, giới thiệu việc làm từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 4 năm 2008 được 3.096 lao động, trên 600 lao động được đào tạo về kế toán, văn thư lưu trữ, tin học, ngoại ngữ…
Công tác tuyên truyền về Giới, phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng chống ma túy, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống tội phạm, tuyên truyền về an toàn giao thông cũng được các cấp Công đoàn thường xuyên tổ chức với nhiều nội dung và hình thức phong phú.
Trong tỉnh có 6 câu lạc bộ nữ công, có hơn 300.000 hội viên, hàng năm có hơn 2.500 bản sách về chuyên đề nữ công được phát hành. Công tác nữ công với trọng tâm là phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” nhằm phát huy tài năng, trí tuệ của nữ công nhân viên chức lao động trong lao động, công tác đã được đông đảo chị em hưởng ứng tham gia, chất lượng phong trào ngày một nâng lên, các nội dung “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” được các ngành, địa phương, cơ sở cụ thể hóa thành các chỉ tiêu phù hợp nên đạt hiệu quả cao. Phong trào đã trở thành điểm tựa cho chị em phấn đấu, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính… góp phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ.
Hoạt động của Ban Nữ công quần chúng, Ban Nữ công cơ sở được đổi mới về nội dung, đi sâu vào hoạt động về giới, tham mưu cho Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Công đoàn các cấp chỉ đạo công tác nữ công trong tình hình mới, tạo điều kiện cho chị em tham gia các hoạt động xã hội, tham quan học tập kinh nghiệm để nâng cao trình độ, có ý thức vươn lên, khắc phục tư tưởng tự ti, an phận, ngại phấn đấu. Ban Nữ công cơ sở các doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách với lao động nữ. Đồng thời thường xuyên tập hợp ý kiến của nữ công nhân lao động để tham gia đóng góp, xây dựng các chính sách, chế độ liên quan đến lao động nữ và đưa vào thỏa ước lao động tập thể và Nghị quyết Đại hội Công nhân Viên chức.
Công tác tuyên truyền giáo dục của Công đoàn đã góp phần tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức chính trị về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong tình hình mới, trách nhiệm của giai cấp công nhân đối với sự nghiệp “Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước”, góp phần tạo nên sự thống nhất trong nhận thức và hành động của công nhân viên chức lao động, nâng cao hiệu quả của hoạt động Công đoàn.
Về tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, các chế độ, chính sách có liên quan đến công nhân viên chức lao động:
Để thực hiện tốt chức năng hàng đầu của tổ chức Công đoàn là chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động, trong nhiệm kỳ Khóa VII (2003- 2008) các cấp Công đoàn trong tỉnh đã chủ động phối hợp với các ngành như: Lao động, Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội, Y tế, Công an … đề ra kế hoạch và triển khai thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật lao động ở các doanh nghiệp. Qua đó, đã yêu cầu các doanh nghiệp chấn chỉnh về công tác an toàn – vệ sinh lao động, phòng – chống cháy nổ, ký kết Thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động, các chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…, đề xuất với chính quyền địa phương có văn bả chỉ đạo các doanh nghiệp khắc phục những yếu kém để xây dựng mối quan hệ hài hòa trong lao động, giúp doanh nghiệp ổn định, phát triển sản xuất; đồng thời, vận động công nhân lao động tuân thủ các quy định của pháp luật, nội quy lao động, các biện pháp phòng – chống cháy nổ nhằm giảm thiểu tai nạn lao động xảy ra. Theo thống kê, số tai nạn lao động chết người năm 2003: có 3 người, năm 2007 có 3 người; số mắc bệnh nghề nghiệp năm 2003 là 120 người, năm 2007 là 85 người (giảm 35 người).
Cùng với việc giám sát thực thi pháp luật lao động, các cấp Công đoàn phối hợp với các ngành chức năng giải quyết kịp thời các vụ phản ứng của tập thể lao động; khiếu nại, tố cáo của công nhân viên chức lao động theo đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động khi bị người sử dụng lao động xâm phạm, nhờ vậy, trong nhiệm kỳ 2003 – 2008 tại Tiền Giang không xảy ra đình công, lãn công trong công nhân viên chức lao động ở các loại hình doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chánh, chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước sang Cổ phần và khoán chi phí quản lý hành chánh, hầu hết các Liên đoàn Lao động huyện, thị, thành phố, ngành đều tham gia vào Ban Chỉ đạo ở địa phương để thực hiện vai trò giám sát. Nổi bật nhất là việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Hàng năm, các Công đoàn cơ sở ở cơ quan, doanh nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo chuyên môn cùng cấp tổ chức Hội nghị Cán bộ – Công chức và Đại hội Công nhân – Viên chức với chất lượng ngày càng được nâng cao, bình quân đạt trên 85% so với tổng số cơ quan, doanh nghiệp trong tỉnh.
Thông qua vai trò của tổ chức Công đoàn, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở ngày càng được mở rộng, được phát huy trong mọi lĩnh vực, góp phần ngăn chặn kịp thời và hạn chế tình trạng tiêu cực có thể xảy ra.
Ngoài ra, các cấp Công đoàn còn tổ chức cho công nhân viên chức lao động đóng góp ý kiến xây dựng các dự thảo Luật, Pháp lệnh, triển khai thực hiện Nghị quyết 5a, Nghị quyết 5b của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về đẩy mạnh và tăng cường công tác giáo dục, phổ biến kiến thức pháp luật, công tác bảo hộ lao động trong tình hình mới; củng cố, chỉ đạo hoạt động thanh tra nhân dân ở các cơ quan, doanh nghiệp; tăng cường tư vấn pháp luật, tư vấn về việc làm và đào tạo nghề.
Các hoạt động xã hội được các cấp Công đoàn tiếp tục đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, như: Tín chấp cho công nhân viên chức lao động vay vốn ngân hàng hoặc Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm; vận động công nhân viên chức lao động đóng góp xây dựng quỹ Tương trợ, quỹ Trợ vốn, quỹ Đền ơn đáp nghĩa, quỹ Vì trẻ em, đóng góp cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, đặc biệt là cuộc vận động xây dựng Quỹ “Mái ấm Công đoàn” do Liên đoàn Lao động tỉnh phát động, được đông đảo công nhân viên chức lao động trong tỉnh tích cực hưởng ứng với tinh thần trách nhiệm cao. Đến năm 2008, Công đoàn tỉnh đã xây dựng được 103 mái ấm Công đoàn, góp phần giúp những công nhân viên chức lao động nghèo có hoàn cảnh khó khăn ổn định được cuộc sống.
Về các phong trào thi đua yêu nước:
Hưởng ứng các phong trào hành động cách mạng do Đảng và Nhà nước phát động, kể từ đầu nhiệm kỳ Khóa VII (2003 – 2008), phong trào thi đua do các cấp Công đoàn tổ chức đã căn cứ vào mục tiêu kinh tế – xã hội của địa phương để vận động công nhân viên chức thực hiện, nòng cốt là phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, phong trào “Xanh – Sạch – Đẹp; bảo đảm An toàn – Vệ sinh lao động”, phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”,… Hàng năm, theo kế hoạch của Liên đoàn Lao động tỉnh, các cấp Công đoàn đã đăng ký các chỉ tiêu, các danh hiệu thi đua, công trình sản phẩm, khối lượng công việc, sáng kiến cải tiến và triển khai thực hiện ngay từ đầu năm. Thể hiện rõ nhất là phong trào “Dân chủ – Kỷ cương – Tình thương – Trách nhiệm”, thực hiện “Hai không” (Không tiêu cực và không bệnh thành tích trong ngành Giáo dục) của Công đoàn ngành Giáo dục; Phong trào xây dựng người cán bộ công chức “Trung thành, Sáng tạo, Tận tụy, Gương mẫu” của Công đoàn Viên chức; Phong trào thi đua “Chỉnh trang đô thị” của thành phố Mỹ Tho. Bên cạnh các phong trào do các ngành và các địa phương phát động, nổi bật lên các đợt thi đua chào mừng Đại hội Thi đua toàn quốc lần thứ VII, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Đại hội Công đoàn các cấp tiến tới Đại hội VIII Công đoàn tỉnh Tiền Giang, Đại hội X Công đoàn Việt Nam do Liên đoàn Lao động tỉnh phát động.
Qua sơ kết các phong trào hành động cách mạng đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến. Để động viên và kịp thời nhân rộng các điển hình, Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức các Hội nghị tuyên dương khen thưởng, điển hình là Hội nghị tuyên dương khen thưởng công nhân viên chức lao dộng tiêu biểu toàn tỉnh 5 năm (1999 – 2004), tổng kết 10 năm phong trào “Thi đua Lao động sáng tạo”, 10 năm phong trào “Xanh – Sạch – Đẹp; Bảo đảm an toàn – Vệ sinh lao động, Phòng chống cháy nổ”, 10 năm thực hiện Nghị quyết 4c về công tác vận động nữ công nhân viên chức lao động trong tình hình mới, 5 năm phong trào “Xây dựng gia đình công nhân viên chức lao động tiêu biểu” , kết hợp với sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng kết 5 năm phong trào “Thi đua liên kết phục vụ nông nghiệp, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp ở nông thôn” để rút kinh nghiệm chỉ đạo phong trào những năm tiếp theo.
Trong nhiệm kỳ Khóa VII (2003 – 2008), toàn tỉnh đã có 56.760 lượt công nhân viên chức lao động đạt danh hiệu “Thi đua Lao động giỏi”; 5.832 người đạt danh hiệu “Chiến sĩ Thi đua” các cấp; 225 cá nhân, tập thể được nhận Cờ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Huân chương Lao động các loại, trong đó có 4 cá nhân được tặng huy hiệu “Lao động sáng tạo”; 2 tập thể, 2 cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới”; Liên đoàn Lao động tỉnh được tặng cờ Thi đua của Chính phủ; 10 Chiến sĩ Thi đua cấp tỉnh và cấp Tổng Liên đoàn Việt Nam; Trong hệ thống Công đoàn có 9 tập thể, 20 cá nhân được Bằng khen Thủ tướng Chính phủ; 01 cá nhân được tặng Huân chương Lao động hạng III và Chiến sĩ Thi đua toàn quốc. Tiêu biểu như: Anh Hà Long Hải, Phó Quản đốc kỹ thuật xí nghiệp Cơ khí 1 tháng 5 thuộc sở Công nghiệp Tiền Giang có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, 5 năm liền được UBND tỉnh tặng Bằng khen, năm 2003 được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Chị Nguyễn Ngọc Thu, Giám đốc Công ty Xăng dầu Tiền Giang, đã có những cống hiến to lớn cho đơn vị, đưa đơn vị từ chỗ thua lỗ hơn 13 tỷ đồng đến có nguồn vốn kinh doanh hơn 30 tỷ đồng, là Chiến sĩ thu đua toàn quốc, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, được nhận Huân chương lao động hạng III, được vinh danh là “Người Phụ nữ Việt Nam năm 2004”; Anh Đoàn Thành Đạt, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng Tiền Giang, có nhiều công sức xây dựng đơn vị và tổ chức Công đoàn tại đơn vị, đạt danh hiệu Chiến sĩ Thi đua toàn quốc (1996 – 2000), đơn vị được Chủ tịch nước tuyên dương Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; Anh Nguyễn Hữu Lộc, Hiệu trưởng trường tiểu học Phước Thạnh, với sự quản lý giỏi, năm 1995 – 1996 trường được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, năm học 2001 – 2002 được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III; Anh Đặng Thanh Hồ, trưởng phòng thuộc Công ty may Tiền Tiến đã có nhiều sáng kiến đột phá, được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen; và nhiều tấm gương điển hình khác [17].
Qua các phong trào thi đua do tổ chức Công đoàn phát động đã tạo điều kiện cho công nhân viên chức lao động nâng cao ý thức trách nhiệm, nhiệt tình cách mạng, tinh thần lao động sáng tạo, nêu cao ý thức tự lực tự cường, vượt qua mọi khó khăn thử thách, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế – xã hội của địa phương.
Về công tác phát triển đoàn viên, xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh:
Xác định công tác phát triển đoàn viên, xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của tổ chức Công đoàn, trong nhiệm kỳ 2003 – 2008, bằng sự nỗ lực và quyết tâm cao của các cấp Công đoàn trong tỉnh, trong hệ thống Công đoàn đã phát triển thêm 302 Công đoàn cơ sở và Nghiệp đoàn, với 19.433 đoàn viên, đạt 114,31% chỉ tiêu do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam giao, trong đó, khu vực Nhà nước có 4.602 đoàn viên; khu vực ngoài Nhà nước có 14.831 đoàn viên, đồng thời thành lập mới Công đoàn Khu Công nghiệp, 169 Công đoàn cơ sở cơ quan xã, phường, thị trấn – nâng tổng số Công đoàn cơ sở lên 1.198 đơn vị với 58.290 đoàn viên, đạt tỷ lệ 75,02%/tổng số công nhân viên chức lao động.
Cùng với công tác phát triển đoàn viên, Công đoàn các cấp còn đặc biệt quan tâm kiện toàn về mặt tổ chức, xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của Công đoàn cơ sở. Hàng năm bình quân khoảng 80,5% Công đoàn các cấp ở Khu vực Nhà nước và 51% Công đoàn, Nghiệp đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt tiêu chuẩn vững mạnh.
Hệ thống tổ chức của Công đoàn tỉnh thường xuyên được củng cố. Mô hình tổ chức được xác định từ nhiệm vụ và nội dung hoạt động phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của các loại hình Công đoàn cơ sở, Công đoàn cấp huyện, Công đoàn ngành, Công đoàn các Khu Công nghiệp.
Từ năm 2004, theo tinh thần Công văn 473 – Cv/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về lãnh đạo thành lập, tổ chức và hoạt động công đoàn cơ sở cơ quan xã, phường, thị trấn, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh đã triển khai việc thành lập công đoàn cơ sở. Tại thành phố Mỹ Tho, Công đoàn cơ sở xã Đạo Thạnh – đơn vị điểm đầu tiên của tỉnh được thành lập vào tháng 3 năm 2005, đến cuối nhiệm kỳ Khóa VII trên phạm vi toàn tỉnh đã có 169/169 công đoàn cơ sở cơ quan cấp xã được thành lập, có 6.375 cán bộ, công chức xã tham gia tổ chức Công đoàn.
Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở sau mỗi kỳ Đại hội được quan tâm kiện toàn, xây dựng quy chế hoạt động của Ban Chấp hành, quy chế phối hợp hoạt động với chính quyền cùng cấp để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của công đoàn. Mối quan hệ phối hợp chỉ đạo giữa Liên đoàn Lao động tỉnh và Công đoàn ngành Trung ương đối với Công đoàn ngành địa phương và Công đoàn cơ sở đóng tại địa phương, phù hợp với tính chất ngành nghề và các phong trào xã hội ở địa phương.
Công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Công đoàn được Liên đoàn Lao động tỉnh quan tâm, nhằm tạo nguồn cán bộ cho hệ thống Công đoàn tỉnh. Đầu tư kinh phí, liên kết và phối hợp với trường Chính trị tỉnh, trung tâm Giáo dục Chính trị cấp huyện… mở rộng nhiều hình thức đào tạo, chương trình, nội dung phù hợp với yêu cầu cán bộ Công đoàn. Trong nhiệm kỳ đã tổ chức 103 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 10.506 lượt cán bộ Công đoàn các cấp trong tỉnh, cử 19 cán bộ Công đoàn dự các lớp Đại học Công đoàn, 16 đồng chí dự lớp học phần Công đoàn, 1 đồng chí theo học chương trình sau Đại học. Đến năm 2008, toàn tỉnh có 65 cán bộ Công đoàn chuyên trách có trình độ Đại học, đạt tỷ lệ 70,02% so với tổng số.
Để phát huy tốt vai trò của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị, Nhiệm kỳ 2003 – 2008, các cấp Công đoàn đã tích cực hưởng ứng cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động, thường xuyên vận động công nhân viên chức đi đầu trong việc thực hiệc các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia cùng với chính quyền sắp xếp lại bộ máy, cải cách lề lối làm việc theo hướng cải cách hành chánh, thực hành tiết kiệm, phòng chống lãng phí, đề xuất với Đảng tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, kết nạp Đảng viên trong lực lượng cán bộ, công chức và công nhân ưu tú, đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng giai cấp công nhân, xây dựng tổ chức Đảng trong các thành phần kinh tế.Từ năm 2003 đến cuối năm 2007, các cấp Công đoàn đã giới thiệu các cấp Ủy xem xét, bồi dưỡng kết nạp trên 5.000 công đoàn viên ưu tú đứng vào hàng ngũ của Đảng, đây chính là lực lượng nòng cốt đi đầu trong mọi lỉnh vực hoạt động ở cơ sở và địa phương. Đồng thời xây dựng chương trình “xây dựng giai cấp công nhân phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa” tại tỉnh nhà. Tích cực tham mưu với Tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân tỉnh vận dụng thực hiện các chính sách cán bộ, chăm lo xây dựng và nâng cao năng lực, trình độ cán bộ đoàn thể.
Trong nhiệm kỳ 2003 – 2008, các cấp Công đoàn đã tích cực tham gia và làm nòng cốt trong các phong trào hành động cách mạng, thi đua yêu nước, chủ động tham gia cùng chính quyền sắp xếp lại tổ chức bộ máy, cải tiến lối làm việc, cải cách hành chánh, xây dựng đề án thực hiện chủ trương tinh giản biên chế trong cơ quan hành chánh sự nghiệp và các cuộc vận động lớn của tỉnh.
Về công tác quản lý tài chính và tài sản Công đoàn:
Để khai thác các nguồn thu, các cấp Công đoàn đã có nhiều cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ của chính quyền và cơ quan tài chính nhằm tổ chức quản lý và phân phối tài chính đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm, khai thác hết các nguồn thu, tập trung kinh phí cho hoạt động phong trào, cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn, phát triển Công đoàn ngoài quốc doanh và các hoạt động xã hội.
Liên đoàn Lao động tỉnh thực hiện phân cấp tài chính cho Công đoàn ngành, Liên đoàn Lao động huyện, đảm bảo thu – chi đúng quy định của Nhà nước và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính ở địa phương bàn biện pháp thực hiện việc trích nộp kinh phí Công đoàn theo quy định của pháp luật.
Các cấp Công đoàn đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chế độ báo cáo quyết toán và lập kế hoạch thu, chi theo quy chế; đặc biệt chú trọng công tác hướng dẫn nghiệp vụ, công tác kiểm kê, đánh giá và quản lý tài sản Công đoàn.
Đối với hoạt động kinh tế của Công đoàn, mặc dù chỉ duy trì được hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch, tuy còn nhiều khó khăn về vốn và sức ép cạnh tranh trong cơ chế thị trường, song, công ty Trách nhiệm hữu hạn Du lịch Công đoàn thời gian qua đã có nhiều cố gắng trong hoạt động, vừa giải quyết được việc làm và từng bước nâng cao thu nhập cho công nhân lao động của công ty, vừa đóng góp một phần kinh phí cho ngân sách Công đoàn tỉnh hàng năm theo quy định của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Về công tác kiểm tra của Công đoàn:
Được các cấp Công đoàn quan tâm, công tác kiểm tra ngày càng được kiện toàn về tổ chức. Việc xác định chức năng, nhiệm vụ của từng cấp ngày càng được xác định rõ hơn. Trong nhiệm kỳ 2003 – 2008, Ủy ban Kiểm tra Công đoàn các cấp đã nhận được 510 đơn khiếu tố, trong đó cấp tỉnh 55 đơn, cấp huyện – ngành 270 đơn, cấp cơ sở 185 đơn. Trong số đơn trên, số đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của tổ chức Công đoàn chiếm gần 10%, các cấp Công đoàn đã giải quyết đạt 100%; số đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan chức năng, tổ chức Công đoàn tham gia giải quyết tốt, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công nhân viên chức lao động.
Ngoài ra, Ủy ban Kiểm tra Công đoàn các cấp tổ chức 2.338 cuộc kiểm tra về việc chấp hành Điều lệ Công đoàn, về thu – chi, quản lý tài chính, tài sản Công đoàn, qua đó đã chấn chỉnh những thiếu sót về sổ sách, chứng từ kế toán của một vài kế toán Công đoàn cấp huyện và Công đoàn cơ sở trực thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh. Công đoàn các cấp còn tổ chức kiểm tra cùng cấp về hoạt động kinh doanh của các đơn vị trực thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh theo đúng quy định của pháp luật.
Hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Công đoàn các cấp đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác Công đoàn, nâng cao ý thức chấp hành Điều lệ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động.
X X
X
5 năm (2003 – 2008), nhiệm kỳ của ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang Khóa VII, một chặng đường mới của công nhân viên chức, lao động Tiền Giang vào những năm trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, khi đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Tiền Giang, của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, sự tạo điều kiện thuận lợi của Ủy ban Nhân dân tỉnh, của chính quyền các cấp và sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các ngành, đoàn thể trong tỉnh nên các cấp Công đoàn tỉnh nhà đã đạt được những thành quả đáng khích lệ.
Công tác xây dựng tổ chức và đẩy mạnh các hoạt động Công đoàn trong 5 năm (2003 – 2008) đã thực sự đánh dấu một bước phát triển mới về chất của tổ chức Công đoàn cũng như phong trào công nhân viên chức, lao động toàn tỉnh. Nét nổi bật là hệ thống tổ chức Công đoàn được củng cố vững mạnh từ tỉnh đến cơ sở, nhiều tổ chức mới trực thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh được hình thành trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, nhiều phong trào hành động cách mạng, phong trào thi đua yêu nước được tổ chức rầm rộ, mang lại hiệu quả thiết thực. Việc tập hợp công nhân lao động khu vực ngoài quốc doanh vào tổ chức Công đoàn đã có sự chuyển biến vượt bậc. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ Công đoàn được chú trọng đầu tư. Các chương trình hoạt động chuyên đề của Công đoàn tỉnh được đổi mới với nhiều phương thức hoạt động có hiệu quả hơn, đặc biệt là việc chăm lo nhà ở cho công nhân viên chức lao động nghèo từ quỹ “Mái ấm Công đoàn”, chế độ bồi dưỡng cho cán bộ Công đoàn được thực hiện tốt, động viên được lực lượng cán bộ Công đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Với sự phấn đấu không mệt mỏi, công nhân viên chức lao động Tiền Giang đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp “Đổi mới” tại tỉnh nhà. Bằng sự cống hiến to lớn ấy, trong những năm từ 2003 đến 2008 đã có 5.532 người đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua” các cấp, 225 cá nhân và tập thể được nhận Cờ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Huân chương Lao động các loại.
Thực tiễn phong phú của phong trào công nhân viên chức – lao động và hoạt động Công đoàn Tiền Giang trong thời gian qua sẽ là hành trang để công nhân viên chức – lao động và tổ chức Công đoàn Tiền Giang tiếp tục vững bước trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa, góp phần xây dựng Tiền Giang ngày càng thêm giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh.
TỔNG LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ năm 1975 đến năm 2008 là cuộc hành trình dài 33 năm của phong trào công nhân viên chức – lao động và Công đoàn Tiền Giang, là sự kết tinh những đóng góp to lớn của các thế hệ cán bộ – công nhân viên chức – lao động trên vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, quê hương của chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785, của cuộc khởi nghĩa Tháng 11 năm 1940 vang trời dậy đất, của chiến thắng Ấp Bắc bẻ gãy các chiến thuật tân kỳ của Mỹ năm 1963 và những chiến công vang dội khác.
33 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tiền Giang, sự chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, công nhân viên chức – lao động và tổ chức Công đoàn Tiền Giang đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, xứng đáng là đội tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phát huy bản chất tốt đẹp của giai cấp, truyền thống đoàn kết nhất trí, tinh thần tự lực tự cường “Vì cả nước, với cả nước”, vượt qua mọi khó khăn, thử thách và những rào cản khắc nghiệt kéo dài của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tổ chức các phong trào thi đua sôi nổi, mạnh mẽ, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công nhân viên chức – lao động và xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, góp phần quan trọng tạo ra những chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Một phần ba thế kỷ trôi qua, kể từ ngày quê hương Mỹ Tho và Gò Công được hoàn toàn giải phóng (30 tháng Tư năm 1975), để năm 1976, Mỹ Tho và Gò Công được hợp nhất, thành tỉnh Tiền Giang, với số lượng khoảng 1.000 công nhân viên chức đã vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn do 2 cuộc chiến tranh tàn khốc suốt 30 năm, và tiếp đến là chiến tranh biên giới Tây – Nam vào những năm 1978 – 1979, nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Có lúc với khẩu hiệu “Mỗi xí nghiệp, cơ quan, công nông lâm trường là một đơn vị chiến đấu”, “Mỗi công nhân viên chức là một chiến sĩ kiên cường”, các trung đội, đại đội tự vệ của công nhân viên chức ra đời, vừa công tác, sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu. Với lòng yêu quê hương đất nước, với niềm tự hào về một dân tộc anh hùng và về giai cấp tiên phong, cán bộ, công nhân viên chức Tiền Giang đã đạp bằng mọi trở ngại, thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, tạo ra hàng chục ngàn sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hoàn thành vượt mức kế hoạch hàng năm, góp phần to lớn vào việc cải tạo nông nghiệp, cải tạo công – thương nghiệp trong những năm đầu sau ngày giải phóng.
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, công nhân viên chức – lao động và tổ chức Công đoàn Tiền Giang không tránh khỏi những biến động, thử thách, song dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng và chính chính quyền; sự quan tâm, động viên, giáo dục và chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công đoàn, công nhân viên chức – lao động trong tỉnh đã vượt qua khó khăn, thử thách, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định lập trường giai cấp, giữ vững bản lĩnh chính trị, năng động, sáng tạo, nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp, nhanh chóng nắm bắt công nghệ khoa học tiên tiến, đáp ứng yêu cần công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương Tiền Giang ngày thêm giàu đẹp.
Các thế hệ công nhân viên chức – lao động Tiền Giang trong suốt 1/3 thế kỷ qua đã để lại cho thế hệ sau kho tàng vô giá không chỉ là các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các kiến trúc đồ sộ tại các đô thị đang được lớn dần, cơ sở hạ tầng đang ngày thêm hiện đại – dấu ấn của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn để lại những truyền thống tốt đẹp làm động lực để đội ngũ công nhân viên chức – lao động Tiền Giang tiếp tục vững bước đi lên.
Những truyền thống tốt đẹp ấy được thể hiện và lịch sử khắc ghi:
Một: Sinh ra trong bối cảnh đất nước bị xâm lăng, giai cấp công nhân Việt Nam (trong đó có công nhân Mỹ Tho và Gò Công, nay là Tiền Giang) đã đồng hành cùng với dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Trên chặng đường vẻ vang ấy, công nhân, viên chức, lao động Tiền Giang đã tỏ rõ lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của mình, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, đòi quyền sống cho người lao động, đòi độc lập cho dân tộc.
Lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của công nhân, viên chức, lao động Tiền Giang là truyền thống cực kỳ quý báu. Lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội ấy thể hiện ở việc đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống áp bức, đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, đòi tăng lương – giảm giờ làm, các phong trào tham gia kháng chiến… trong các thời kỳ chống thực dân và đế quốc, ở các phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công nhân viên chức và người lao động Tiền Giang bằng tinh thần yêu nước, bằng sự cần cù và sáng tạo đã tạo những tiền đề quan trọng để xây dựng quê hương phát triển nhanh trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Hai: Đoàn kết là truyền thống tốt đẹp của công nhân viên chức và lao động Tiền Giang. Được tôi rèn trong khói lửa của các cuộc chiến tranh giữ nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, cùng với các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đấu tranh để giành độc lập, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh ấy, giai cấp công nhân không chỉ đoàn kết trong giai cấp của mình, mà còn đoàn kết với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân trong xã hội, thành một khối thống nhất, thành sức mạnh to lớn để đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giành thắng lợi hoàn toàn. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nhân viên chức và lao động Tiền Giang đã đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch trên giao hàng năm, tạo ra nhiều phong trào thi đua yêu nước, xuất hiện nhiều tấm gương điển hình về lao động sản xuất, không ngừng đổi mới quê hương.
Nhờ có sự đoàn kết nhất trí trong quan điểm và hành động, công nhân viên chức và lao động Tiền Giang đã vượt qua được những khó khăn, thách thức, trở thành đội quân “chủ lực” trong công cuộc đổi mới đất nước tại quê hương Tiền Giang.
Ba: Công nhân viên chức và lao động Tiền Giang với truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, năng động trở thành lực lượng chủ yếu đi đầu trong công cuộc xây dựng quê hương Tiền Giang ngày càng giàu đẹp.
Truyền thống cần cù, sáng tạo, năng động của công nhân viên chức và lao động Tiền Giang được bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc, từ nền văn minh lúa nước đến sự tiếp nhận nền văn minh công nghiệp của các nước tiên tiến trong thời kỳ đất nước mở cửa hội nhập, đến thời đại internet để làm chủ về kỹ thuật hiện đại, sáng tạo nhiều mô hình phục vụ nông nghiệp, không ngừng đưa năng suất về nông nghiệp và công nghiệp lên cao, đáp ứng nhu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Trong các phong trào thi đua lao động sản xuất trong 33 năm qua (tính từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng) đã xuất hiện rất nhiều bông hoa điển hình sáng kiến, nhiều cải tiến kỹ thuật đem lại lợi ích thiết thực cho cơ quan, đơn vị, địa phương và đất nước, giảm bớt sức lao động của người lao động, và hơn thế, nó khơi dậy tiềm năng trí tuệ của đông đảo công nhân lao động, qua đó khẳng định vai trò tiên phong của công nhân viên chức – lao động. Sự cần cù lao động sáng tạo và năng động ấy trở thành truyền thống và là nét đẹp tô thắm từng trang sử không phai của Công đoàn Tiền Giang.
Bốn: Công nhân viên chức và lao động Tiền Giang đã tỏ rõ vai trò nòng cốt của mình trong việc tập hợp các lực lượng quần chúng, trong các phong trào thi đua yêu nước. Là một tổ chức được tổ chức chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, công nhân viên chức – lao động Tiền Giang đã đi tiên phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, sự nghiệp xây dựng đất nước, và ngày nay, vẫn là lực lượng tiên phong trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Với vai trò là lực lượng nòng cốt, công nhân viên chức – lao động Tiền Giang đã đi đầu trong mọi phong trào hành động cách mạng, trở thành một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến thành công, là hạt nhân của sự đoàn kết và tập hợp lực lượng cách mạng trong các thời kỳ kháng chiến cũng như trong xây dựng đất nước để tạo nên sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương v.v…
Năm: Công nhân viên chức – lao động Tiền Giang qua cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng đất nước đã thể hiện ý chí kiên cường trong mọi hoàn cảnh. Ý chí ấy được tôi luyện trong những thử thách to lớn của lịch sử dân tộc thời cận đại và hiện đại, trong những giai đoạn khó khăn nhất của các cuộc kháng chiến, những thời kỳ dân tộc đứng trước những thử thách nghiêm trọng để đối mặt vượt qua.
Ý chí kiên cường của công nhân lao động Tiền Giang được hun đúc, rèn luyện qua các giai đoạn lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ của cao trào của cách mạng 1930 – 1931, trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, trong Cách mạng Tháng Tám, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong phong trào nổi dậy 1960 – 1961 của thời kỳ chống Mỹ cứu nước, trong cuộc tổng tiến công để giành thắng lợi của cách mạng vào ngày 30/4 lịch sử và trong những năm tháng đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn ở thời kỳ bao cấp… thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống ấy đã và đang được phát huy trong thời kỳ mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
X X
X
Thực tiễn phong trào công nhân viên chức – lao động và hoạt động Công đoàn Tiền Giang trong 33 năm qua đã đóng góp những bài học kinh nghiệm quý giá, đó là:
Một: Quán triệt quan điểm, đường lối, Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nhiệm vụ chính trị của địa phương để đề ra các chương trình hành động, các mục tiêu phấn đấu, đưa phong trào công nhân, viên chức và người lao động tiến lên, đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh nhà :
Lịch sử phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn Tiền Giang là một bộ phận của phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam, từ khi ra đời đến nay luôn gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trên mỗi chặng đường lịch sử vẻ vang, sự trưởng thành và phát triển của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn Tiền Giang luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng bộ Tiền Giang (trước năm 1976 là Đảng bộ Mỹ Tho và Đảng bộ Gò Công), của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, của Ban Chấp hành Công đoàn các cấp và sự nỗ lực của mỗi cán bộ, công nhân, viên chức, lao động tỉnh Tiền Giang, điều đó minh chứng mọi phong trào của công nhân viên chức – lao động và hoạt động Công đoàn Tiền Giang đều xuất phát từ quan điểm, đường lối, Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương Tiền Giang, biến quan điểm, đường lối, Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Tổng Liên đoàn và nhiệm vụ chính trị của địa phương thành chương trình hành động cách mạng, thành các mục tiêu phấn đấu trong từng giai đoạn của cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động Tiền Giang, thành các phong trào sôi nổi trong từng huyện, thị, trong từng ngành, từng cấp, từng đơn vị, kích thích sự sáng tạo, nỗ lực của từng cá nhân, đóng góp vào thành tích chung của đơn vị, của ngành, của địa phương, mang lại hiệu quả thiết thực về kinh tế và xã hội.
Quán triệt đường lối của Đảng thông qua các Nghị quyết, chính sách – pháp luật của Nhà nước, các Nghị quyết của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các Nghị quyết của các cấp ủy Đảng bằng việc học tập, nghiên cứu, vận dụng nội dung các Nghị quyết vào điều kiện cụ thể của các phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn tại địa phương, biến tinh thần các Nghị quyết thành nhận thức, tình cảm, hành động của cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động, hướng vào các mục tiêu của các Nghị quyết.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, Nghị quyết của Đảng, của Tỉnh ủy, của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân, của cán bộ, công nhân viên chức và người lao động. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Liên đoàn Lao động Tiền Giang luôn kịp thời tổ chức các đợt học tập, nghiên cứu một cách nghiêm túc, biến Nghị quyết của Đảng thành chương trình hành động của Liên đoàn Lao động tỉnh, chương trình hành động của các cấp Công đoàn, từ đó tổ chức phát động phong trào thi đua nhằm thực hiện các mục tiêu mà chương trình hành động đề ra.
Trong thời kỳ bao cấp, nền kinh tế chậm phát triển, lạm phát tăng cao, nhiều Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng nhanh chóng đến cán bộ, công nhân, viên chức để trở thành các phong trào: “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật – hợp lý hóa sản xuất”, “Sáng kiến – cải tiến – tiết kiệm”, “Làm nông nghiệp giỏi”, “Thi đua lao động sản xuất phục vụ nông nghiệp”, … đã tạo ra hàng chục ngàn sáng kiến, làm lợi cho Nhà nước hàng chục triệu đồng (theo thời giá những năm 70 – 80 của thế kỷ XX).
Trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý và công nghiệp hóa – hiện đại hóa, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, sử dụng mặt tích cực của kinh tế thị trường để phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, các cấp Công đoàn ở Tiền Giang đã đẩy mạnh các phong trào cách mạng với những hình thức và nội dung ngày càng phong phú, đa dạng, xây dựng và hoàn thiện dần hệ thống Công đoàn trong bối cảnh đa dạng hóa các thành phần kinh tế, tập hợp lực lượng đông đảo, quan trọng và chủ yếu của xã hội nhằm góp phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Quán triệt sâu các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các Nghị quyết của Tổng Liên đoàn, nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng chính là làm cho công nhân, viên chức, người lao động thật sự thông suốt quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức, trách nhiệm của các cấp Công đoàn và từng Công đoàn viên trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể để thực hiện Nghị quyết của Liên đoàn Lao động tỉnh có hiệu quả cao nhất.
Hai: Tranh thủ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp và tạo điều kiện của chính quyền, các ngành chức năng, các đoàn thể chính trị:
Phong trào công nhân viên chức – lao động tại Tiền Giang trong 33 năm qua với những thành tựu to lớn trên nhiều mặt đã phản ánh sự quan tâm đặc biệt của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp và tạo điều kiện của chính quyền các cấp, các ngành chức năng và các đoàn thể chính trị.
Mỗi phong trào do các cấp Công đoàn phát động đều được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, bên cạnh đó được các cấp chính quyền, các đoàn thể chính trị và các ngành có liên quan tạo mọi điều kiện để phong trào trở thành ngày hội của công nhân viên chức – lao động, mang lại hiệu quả to lớn về kinh tế và xã hội.
Sự phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện cho các phong trào công nhân viên chức – lao động ra đời, có ảnh hưởng sâu rộng trong lực lượng công nhân viên chức – lao động tại cơ sở là kết quả của việc tranh thủ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, để từ đó tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền, các ngành và các đoàn thể chính trị.
Ngay từ khi mới thành lập Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tiền Giang (tháng 3 năm 1976), được sự quan tâm của Tỉnh ủy, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã thực hiện sự tranh thủ có tính nguyên tắc sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Tỉnh ủy nhằm tạo ra sự đồng thuận trong toàn xã hội, thông qua sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự ủng hộ của các ngành và các đoàn thể chính trị. Nhờ đó, các phong trào được các cấp công đoàn phát động luôn có sức lan tỏa, kích thích và thúc đẩy sự sáng tạo của công nhân viên chức – lao động, động viên sự cống hiến của các tập thể và cá nhân trong công tác, lao động, hướng tới “năng suất – chất lượng – hiệu quả”; vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Các phong trào công công viên chức – lao động Tiền Giang trong suốt 33 năm qua luôn có dấu ấn của sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sát sao và cụ thể của các cấp chính quyền, sự tham gia của các ngành chức năng, các đoàn thể, các tổ chức quần chúng. Phong trào “Liên kết phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn” là một điển hình về sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của chính quyền, sự phối hợp của các ngành chức năng, sự tham gia của các tổ chức quần chúng, mà hiệu quả là vực dậy một nền nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, sản xuất manh mún, năng suất thấp của thời kỳ sau chiến tranh để vượt lên trên 1 triệu tấn, rồi 1,3 triệu tấn, trở thành một trong những tỉnh có sản lượng lúa cao (trên 1 triệu tấn) của cả nước. Phong trào đã lôi cuốn mọi ngành tạo ra sản phẩm để phục vụ nông nghiệp, hàng ngàn sáng kiến từ các ngành, các địa phương; hàng vạn công lao động phục vụ nông nghiệp, đặc biệt trong khâu thủy lợi, là hình ảnh sinh động của khối liên minh giai cấp công nhân – giai cấp nông dân – đội ngũ trí thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ba: Tăng cường củng cố tổ chức và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh; Đổi mới phương thức hoạt động Công đoàn:
Thực tiễn hoạt động của Công đoàn Tiền Giang cho thấy một bài học quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn là tăng cường củng cố tổ chức, xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh và luôn đổi mới phương thức hoạt động Công đoàn.
Vấn đề có tính quy luật về phong trào cách mạng là: Có tổ chức mạnh thì có phong trào mạnh. Lịch sử nước ta từ ngày có Đảng đã chứng minh điều đó.
Để có một tổ chức mạnh, vấn đề quan trọng là luôn luôn củng cố tổ chức. Trong vấn đề này, củng cố tổ chức Công đoàn bao gồm cả những vấn đề về bộ máy, năng lực tổ chức của cán bộ, về nội dung hoạt động và hình thức hoạt động.
33 năm qua, nét nổi bật của Công đoàn Tiền Giang là hệ thống tổ chức Công đoàn luôn được củng cố vững mạnh từ tỉnh đến cơ sở. Các cấp Công đoàn luôn nhận thức việc xây dựng Công đoàn cơ sở, Nghiệp đoàn vững mạnh không những là nhiệm vụ sống còn mà còn là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài của tổ chức Công đoàn, đồng thời chú trọng việc xây dựng Công đoàn ở thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ việc củng cố tổ chức và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh và việc tập hợp công nhân lao động ngoài quốc doanh vào tổ chức Công đoàn, thành lập Công đoàn cơ sở ở những doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn, do những quyền và lợi ích hợp pháp được của người lao động được tôn trọng và được bảo vệ.
Thực tế, bằng sự nỗ lực xây dựng tổ chức Công đoàn và đẩy mạnh các hoạt động Công đoàn trong 33 năm qua đã mang lại hiệu quả thiết thực cho chính từng đoàn viên Công đoàn, cho tập thể của từng đơn vị, cho mục tiêu kinh tế – xã hội của tỉnh. Tổ chức Công đoàn vững mạnh góp phần làm giảm bớt các tiêu cực, đem lại các mối quan hệ hài hòa trong tập thể công nhân viên chức – lao động của cơ quan – đơn vị, tạo sự gắn kết trong hoạt động của cơ quan – đơn vị, và rộng hơn, với cộng đồng.
Việc quan tâm kiện toàn về mặt tổ chức, xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của Công đoàn cơ sở đã đem lại những kết quả rất đáng trân trọng. Trong nhiệm kỳ 2003 – 2008, bình quân hàng năm có khoảng 80,5% Công đoàn các cấp ở Khu vực Nhà nước và 51% Công đoàn, Nghiệp đoàn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt tiêu chuẩn vững mạnh, để lại một kinh nghiệm thắng lợi về xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh có tính thực tiễn cao.
Đi đôi với củng cố tổ chức và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh là việc luôn đổi mới phương thức hoạt động Công đoàn.
Sẽ trở nên tẻ nhạt và ít lôi cuốn công nhân lao động trong tổ chức Công đoàn nếu hoạt động Công đoàn thiếu phong phú, hấp dẫn, thiết thực. Trong 33 năm qua, Công đoàn các cấp luôn có sự bổ sung để hoàn thiện nội dung, phương thức hoạt động, góp phần khai thác mọi tiềm năng, đặc biệt là tiềm năng con người, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Công đoàn.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động Công đoàn, phát huy và mở rộng dân chủ để tập hợp ngày càng đông đảo công nhân, viên chức và lao động trong các thành phần kinh tế vào tổ chức Công đoàn, là môt phương cách quan trọng để xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh.
Bốn: Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có phẩm chất, năng lực và hiểu biết phương pháp vận động quần chúng:
Công đoàn là một bột phận trọng yếu trong hệ thống chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ hàng đầu của Công đoàn là phải phát động cho được phong trào cách mạng sôi nổi của công nhân, viên chức và người lao động thi đua lao động sản xuất, thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước. Vì vậy, phải nâng cao vai trò Công đoàn cơ sở, làm cho Công đoàn hoạt động đúng hướng, thực hiện đúng chức năng Công đoàn là trường học của công nhân, viên chức và người lao động, đại diện quyền lợi cho công nhân, viên chức và người lao động.
Để làm được điều đó, vấn đề quan trọng là phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công đoàn ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu của phong trào công nhân viên chức – lao động.
Thực tiễn hoạt động Công đoàn cho thấy cán bộ là nhân tố quyết định cho mọi thành công, do vậy sự quan tâm xây dựng đội ngũ Công đoàn có phẩm chất, có năng lực và hiểu hiểu biết phương pháp vận động quần chúng, nhiệt tình công tác, nhất là đối với cán bộ Công đoàn cơ sở là điều đặc biệt quan trọng, một nhân tố quyết định khả năng phát triển của tổ chức Công đoàn tại địa phương.
Để Công đoàn thể hiện tốt vai trò tham gia giám sát phản biện xã hội và là “cầu nối” giữa Đảng, chính quyền với công nhân, viên chức, lao động thì cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ có tâm, có tầm, am hiểu và sáng tạo phương pháp vận động quần chúng, nội dung và phương thức hoạt động Công đoàn, bởi năng lực cán bộ là điều kiện quan trọng quyết định mức độ thành công của hoạt động Công đoàn.
Một thực tế đáng mừng là hầu hết cán bộ Công đoàn là những cán bộ làm công tác Đảng, công tác chính quyền, đoàn thể, những cán bộ quản lý, những cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ… đã được học tập, đào tạo, được giáo dục, rèn luyện qua thực tiễn chiến đấu và công tác, có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn trung thành với Đảng, với nhân dân, có lòng yêu nước, tận tụy hy sinh vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có mong muốn chính đáng được cống hiến trí tuệ, tài năng cho đất nước; luôn tin tưởng, ủng hộ và đóng góp sức mình vào sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đó thực sự là tiềm năng, nguồn nhân lực và tài sản quý giá và là tiền đề để xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng thêm vững mạnh.
Trong những năm qua, nội dung, phương thức hoạt động Công đoàn cơ sở từng bước được đổi mới, mọi hoạt động hướng vào việc phát huy quyền dân chủ trong quản lý và sản xuất kinh doanh, động viên công nhân viên chức lao động thi đua hoàn thành kế hoạch thông qua Đại hội (Hội nghị) công nhân viên chức, ngày càng chú trọng hơn công tác chăm lo đời sống, giải quyết kho khăn và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Do đó, đã phát huy được tính chủ động, sáng tạo của đoàn viên trong việc xây dựng Công đoàn vững mạnh.
Với những gì đã đạt được trong 33 năm qua của Công đoàn Tiền Giang, có thể nói, đội ngũ công nhân viên chức – lao động và tổ chức Công đoàn Tiền Giang đã trưởng thành về nhiều mặt, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của người lao động.
PHỤ LỤC
- DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH, ỦY BAN KIỂM TRA QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI.
TT | Họ và tên | Chức vụ | Đơn vị công tác | Ghi chú |
I | KHOÁ I (1977-1980) | Thời gian đại hội
từ 12-16/9/1977 |
||
1. | Nguyễn Thị Cúc | Thư ký | ||
2. | Phạm Tửu | Phó Thư ký | Hưu 01/8/1983 | |
3. | Nguyễn Thị Đa | UVTV | Hưu 01/5/1989 | |
4. | Nguyễn Thị Thanh | UVTV | ||
5. | Trương Kỳ Phụng | UVTV | ||
6. | Huỳnh Hải Yến | UV BCH | Mất 8/2006 | |
7. | Nguyễn Minh Hạnh | UV BCH | ||
8. | Phan Tuấn Anh | UV BCH | ||
9. | Nguyễn Thị Hoa | UV BCH | ||
10. | Trần Thị Hiển | UV BCH | Hưu 01/7/1989 | |
11. | Phạm Văn Xinh | UV BCH | ||
12. | Hồ Quang Ân | UV BCH | ||
13. | Nguyễn Trọng Trí | UV BCH | ||
14. | Lê Quang Đỏ | UV BCH | ||
15. | Lê Minh Mẹo | UV BCH | ||
16. | Đoàn Phương Mai | UV BCH | ||
17. | Trương Hoàng Dân | UV BCH | ||
18. | Lê Chí Đức | UV BCH | ||
19. | Đỗ Văn Luận | UV BCH | ||
20. | Đinh Văn Ba | UV BCH | ||
21. | Phạm Hữu Thường | UV BCH | ||
22. | Nguyễn Kim Chi | UV BCH | ||
23. | Phùng Văn Luôn | UV BCH | ||
24. | Phạm Duy Tư | UV BCH | ||
25. | Lê Văn Kết | UV BCH | ||
II | KHOÁ II (1980-1983) | Thời gian đại hội
từ 30/9-03/10/1980 |
||
1. | Nguyễn Kha | Thư ký | ||
2. | Nguyễn Thị Cúc | Phó Thư ký | ||
3. | Nguyễn Thị Đa | UVTV | ||
4. | Trần Thị Hiển | UVTV | ||
5. | Nguyễn Hoàng | UVTV | ||
6. | Trần Văn Vẹn | UVTV | ||
7. | Phan Thị Xuân | UVTV | Hưu 12/1989 | |
8. | Huỳnh Hải Yến | UVTV | ||
9. | Lê Hoàng Lôi | UVTV | ||
10. | Lê Tuấn Anh | UV BCH | ||
11. | Đinh Văn Ba | UV BCH | ||
12. | Lê Thị Bảy Cao | UV BCH | ||
13. | Nguyễn Văn Bé | UV BCH | Hưu 1989 | |
14. | Nguyễn Thị Kim Chi | UV BCH | ||
15. | Lê Đông | UV BCH | ||
16. | Nguyễn Văn Gia | UV BCH | ||
17. | Lê Văn Gương | UV BCH | ||
18. | Nguyễn Thanh Hải | UV BCH | ||
19. | Nguyễn Minh Hạnh | UV BCH | ||
20. | Bùi Thị Hợi | UV BCH | ||
21. | Nguyễn Văn Kính | UV BCH | ||
22. | Đoàn Phương Mai | UV BCH | ||
23. | Lê Minh Mẹo | UV BCH | ||
24. | Phan Văn Mọi | UV BCH | ||
25. | Phan Thị Liên Nguyệt | UV BCH | ||
26. | Bùi Ninh | UV BCH | ||
27. | Đặng Văn Sanh | UV BCH | ||
28. | Nguyễn Văn Sáu | UV BCH | ||
29. | Lê Chí Thanh | UV BCH | ||
30. | Nguyễn Tấn Trí | UV BCH | ||
31. | Phạm Duy Tư | UV BCH | ||
III | KHOÁ III (1983-1988) | Thời gian đại hội
từ 17-18/8/1983 |
||
1. | Nguyễn Thị Cúc | Thư ký | ||
2. | Nguyễn Hoàng | Phó Thư ký | Nghỉ hưu | |
3. | Huỳnh Hải Yến | UVTV | Thay đ/c Hoàng mất | |
4. | Trần Văn Vẹn | UVTV | ||
5. | Phan Thị Xuân | UVTV | ||
6. | Trần Thị Hiển | UVTV | ||
7. | Lê Chí Thanh | UVTV | ||
8. | Nguyễn Hữu Lộc | UVTV | Hưu 8/1989 | |
9. | Lê Đông | UVTV | ||
10. | Lê Hoàng Lôi | UVTV | Hưu 8/1989 | |
11. | Dương Văn Bạch | UVTV | ||
12. | Đinh Văn Ba | UV BCH | ||
13. | Nguyễn Văn Bồi | UV BCH | ||
14. | Trương Văn Bé | UV BCH | ||
15. | Lê Thị Bảy Cao | UV BCH | ||
16. | Trần Kim Dung | UV BCH | ||
17. | Lê Văn Gương | UV BCH | ||
18. | Nguyễn Minh Hạnh | UV BCH | ||
19. | Nguyễn Thanh Hải | UV BCH | ||
20. | Trần Văn Hoà | UV BCH | ||
21. | Bùi Thị Hợi | UV BCH | ||
22. | Đoàn Phương Mai | UV BCH | ||
23. | Nguyễn Hữu Hạnh | UV BCH | ||
24. | Phạm Lý Minh | UV BCH | ||
25. | Nguyễn Kim Môn | UV BCH | ||
26. | Bùi Ninh | UV BCH | Mất | |
27. | Ngô Thiện Phẩm | UV BCH | ||
28. | Nguyễn Việt Phương | UV BCH | ||
29. | Nguyễn Thị Thanh Tâm | UV BCH | ||
30. | Lữ Văn Truyền | UV BCH | ||
31. | Trần Tùng | UV BCH | ||
32. | Đỗ Thanh Vân | UV BCH | ||
33. | Trần Kim Xuyến | UV BCH | ||
IV | KHOÁ IV (1988-1993) | Thời gian đại hội
từ 26-28/7/1988 |
||
1. | Nguyễn Thị Cúc | Chủ tịch | Hưu 1992,
chết 10/2010 |
|
2. | Huỳnh Xuân Việt | Phó Chủ tịch | Thay Đ/c Cúc
nghỉ hưu, chết |
|
3. | Lê Quốc Việt | Phó Chủ tịch | ||
4. | Nguyễn Bảo Long | UVTV | ||
5. | Nguyễn Thị Thanh Hà | UVTV | ||
6. | Trương Thị Bé Sáu | UVTV | ||
7. | Bùi Ninh | UVTV | Mất | |
8. | Lê Hoàng Lôi | UVTV | ||
9. | Nguyễn Hồng Phúc | UVTV | ||
10. | Võ Thị Yểm | UVTV | ||
11. | Phan Bạch Tuyết | UV BCH | ||
12. | Nguyễn Văn Sậm | UV BCH | Mất | |
13. | Trương Văn Bé | UV BCH | ||
14. | Phan Thanh Diệp | UV BCH | ||
15. | Đào Văn Hai | UV BCH | ||
16. | Nguyễn Kim Huỳnh | UV BCH | ||
17. | Nguyễn Thanh Phương | UV BCH | ||
18. | Nguyễn Văn Re | UV BCH | ||
19. | Nguyễn Ngọc Sanh | UV BCH | ||
20. | Nguyễn Thị Hết | UV BCH | ||
21. | Trần Thị Lan | UV BCH | ||
22. | Nguyễn Thị Thanh Hải | UV BCH | ||
23. | Trần Văn Bảnh | UV BCH | ||
24. | Phạm Thị Cầm | UV BCH | ||
25. | Nguyễn Công Đáng | UV BCH | ||
26. | Trần Văn Dũng | UV BCH | ||
27. | Huỳnh Văn Tân | UV BCH | ||
28. | Nguyễn Cao Tất | UV BCH | ||
29. | Võ Minh Tiên | UV BCH | ||
30. | Nguyễn Văn Thành | UV BCH | ||
31. | Võ Thị Thu Vân | UV BCH | ||
32. | Nguyễn Văn Nối | UV BCH | ||
V | KHOÁ V (1993-1998) | Thời gian đại hội
từ 15-16/6/1993 |
||
1. | Huỳnh Xuân Việt | Chủ tịch | ||
2. | Lê Quốc Việt | Phó Chủ tịch | ||
3. | Nguyễn Bảo Long | UVTV | ||
4. | Nguyễn Hồng Phúc | UVTV | ||
5. | Trương Thị Bé Sáu | UVTV | ||
6. | Nguyễn Thị Thanh Hà | UVTV | ||
7. | Dương Trung Dũng | UVTV | ||
8. | Trần Văn Dũng | UVTV | ||
9. | Nguyễn Minh Khôi | UVTV | ||
10. | Nguyễn Kim Bá | UV BCH | ||
11. | Trương Văn Bé | UV BCH | ||
12. | Nguyễn Duy Cẩn | UV BCH | ||
13. | Ngô Thị Chanh | UV BCH | ||
14. | Nguyễn Văn Giảng | UV BCH | Thay đ/c Chanh | |
15. | Nguyễn Văn Châu | UV BCH | ||
16. | Trần Văn Dũng (Bê) | UV BCH | ||
17. | Đào Văn Hai | UV BCH | ||
18. | Lê Minh Vỹ | UV BCH | Thay đ/c Hai | |
19. | Lê Thị Hảo | UV BCH | ||
20. | Trương Văn Hiền | UV BCH | ||
21. | Phạm Thị Lan | UV BCH | ||
22. | Lê Thị Lắc | UV BCH | Chuyển công tác | |
23. | Bùi Vĩnh Thanh | UV BCH | Thay đ/c Lắc | |
24. | Hồ Ngân | UV BCH | ||
25. | Đinh Văn Quý | UV BCH | ||
26. | Lê Minh Hùng | UV BCH | Thay đ/c Quý | |
27. | Trần Thị Cẩm Tú | UV BCH | ||
28. | Bùi Văn Tư | UV BCH | ||
29. | Mai Trung Trực | UV BCH | ||
30. | Huỳnh Văn Điều | UV BCH | Thay đ/c Trực | |
31. | Tạ Công Văn | UV BCH | Chuyển công tác | |
32. | Nguyễn Thị Bé Tư | UV BCH | Thay đ/c Văn | |
33. | Trần Ái Vân | UV BCH | ||
34. | Võ Thị Yểm | UV BCH | ||
35. | Võ Tấn Phú | UV BCH | ||
ỦY BAN KIỂM TRA | ||||
1. | Nguyễn Thị Thanh Hà | Chủ nhiệm | ||
2. | Bùi Văn Tư | Uỷ viên | ||
3. | Huỳnh Ngọc Ẩn | Uỷ viên | ||
4. | Nguyễn Văn Bay | Uỷ viên | ||
5. | Trương Văn Dân | Uỷ viên | Nghỉ hưu | |
6. | Nguyễn Thị Tuấn | Uỷ viên | Thay đ/c Dân | |
7. | Đào Văn Hai | Uỷ viên | ||
8. | Nguyễn Như Kỹ | Uỷ viên | ||
9. | Lương Minh Phương | Uỷ viên | ||
10. | Trần Văn Tính | Uỷ viên | ||
VI | KHOÁ VI (1998-2003) | Thời gian đại hội
từ 29-30/5/1998 |
||
1. | Huỳnh Xuân Việt | Chủ tịch | Chuyển công tác | |
2. | Phạm Văn Khiết | Chủ tịch | Thay đ/c X.Việt | |
3. | Lê Quốc Việt | Phó Chủ tịch | Chuyển công tác 7/2001 | |
4. | Trương Thị Bé Sáu | Phó Chủ tịch | Thay đ/c Q.Việt | |
5. | Trương Văn Hiền | Phó Chủ tịch | ||
6. | Nguyễn Thị Thanh Hà | UVTV | Hưu 10/2001 | |
7. | Nguyễn Hồng Phúc | UVTV | ||
8. | Lê Minh Hùng | UVTV | ||
9. | Dương Trung Dũng | UVTV | Chuyển công tác LĐLĐ TPHCM | |
10. | Trần Văn Dũng | UVTV | ||
11. | Trần Văn Dũng (Bê) | UVTV | ||
12. | Nguyễn Minh Khôi | UVTV | ||
13. | Bùi Văn Tư | UVTV | ||
14. | Phan Thành Hiệp | UV BCH | ||
15. | Huỳnh Văn Điều | UV BCH | Chuyển Hội CCB huyện | |
16. | Nguyễn Văn Giảng | UV BCH | Nghỉ việc 11/2001 | |
17. | Hồ Thanh Sơn | UV BCH | Chuyển HĐND TX | |
18. | Bùi Vĩnh Thanh | UV BCH | ||
19. | Đỗ Phương Thảo | UV BCH | ||
20. | Trần Văn Tổng | UV BCH | ||
21. | Nguyễn Thành Trung | UV BCH | Nghỉ việc 01/2002 | |
22. | Nguyễn Thị Bé Tư | UV BCH | ||
23. | Phan Thanh Bình | UV BCH | ||
24. | Nguyễn Duy Cẩn | UV BCH | Hưu 01/2003 | |
25. | Đào Văn Châu | UV BCH | Chuyển sang chuyên môn | |
26. | Đỗ Châu | UV BCH | ||
27. | Nguyễn Tấn Tranh | UV BCH | ||
28. | Lê Thị Hảo | UV BCH | Hưu | |
29. | Nguyễn Thị Phụng | UV BCH | ||
30. | Nguyễn Hoàng Hạnh | UV BCH | ||
31. | Nguyễn Trường Thanh | UV BCH | ||
32. | Nguyễn Minh Vỹ | UV BCH | ||
33. | Nguyễn Hoài Dũng | UV BCH | ||
34. | Nguyễn Thị Thu Hà | UV BCH | ||
35. | Nguyễn Thành Hưng | UV BCH | ||
36. | Cao Dũng Khanh | UV BCH | ||
37. | Lê Thị Thu Yến | UV BCH | Bổ sung 3/2000 | |
38. | Phạm Thị Lan | UV BCH | Bổ sung 3/2000 | |
39. | Đào Ngọc Linh | UV BCH | Bổ sung 7/2001 | |
40. | Lê Thanh Tiền | UV BCH | Bổ sung 7/2001 | |
41. | Huỳnh Văn Rành | UV BCH | Bổ sung 7/2001 | |
42. | Trần Hoà Huy | UV BCH | Bổ sung 7/2001 | |
ỦY BAN KIỂM TRA | ||||
1. | Trương Thị Bé Sáu | Chủ nhiệm | ||
2. | Bùi Văn Tư | Chủ nhiệm | Thay đ/c Bé Sáu | |
3. | Nguyễn Thị Tuấn | P.Chủ nhiệm | ||
4. | Nguyễn Minh Vỹ | Uỷ viên | ||
5. | Nguyễn Văn Bay | Uỷ viên | ||
6. | Nguyễn Như Kỹ | Uỷ viên | ||
7. | Võ Văn Thanh | Uỷ viên | ||
8. | Trần Văn Tín | Uỷ viên | ||
VII | KHOÁ VII (2003-2008) | Thời gian đại hội
từ 03-04/7/2003 |
||
1. | Phạm Văn Khiết | Chủ Tịch | LĐLĐ Tỉnh TG | Chuyển HĐND tỉnh |
2. | Trương Thị Bé Sáu | Chủ Tịch | – nt – | Thay đ/c Khiết |
3. | Trương Văn Hiền | P.Chủ tịch TT | – nt – | |
4. | Lê Minh Hùng | P. Chủ tịch | – nt – | |
5. | Trần Văn Dũng | UV BTV | – nt – | |
6. | Lê Thanh Tiền | – nt – | – nt – | |
7. | Đào Ngọc Linh | – nt – | – nt – | |
8. | Phan Thành Hiệp | – nt – | – nt – | |
9. | Nguyễn Thế Khải | – nt – | – nt – | |
Lê Thị Thu Yến | – nt – | LĐLĐ TP Mỹ Tho | Chuyển về Phường 2 | |
10. | Lê Thị Bé Phượng | – nt – | LĐLĐ TP Mỹ Tho | Thay đ/c Yến 02/2006 |
11. | Nguyễn Dân Quyền | – nt – | CĐ ngành Giáo dục | |
12. | Phan Bạch Tuyết | UV BCH | LĐLĐ Tỉnh TG | |
13. | Nguyễn Thị Tuấn | LĐLĐ Tỉnh TG | Hưu 8/2005 | |
14. | Trần Văn Dũng (Bê) | – nt – | CĐ các Khu Công nghiệp | |
15. | Tống Thị Hồng Loan | – nt – | LĐLĐ Cái Bè | Thay đ/c Tiền 02/2006 |
Đỗ Phương Thảo | – nt – | LĐLĐ Cai Lậy | Hưu 01/2007 | |
16. | Võ Tấn Phú | – nt – | LĐLĐ Cai Lậy | Thay đ/c Thảo |
17. | Trần Văn Tổng | – nt – | LĐLĐ Tân Phước | |
Nguyễn Thị Bé Tư | – nt – | LĐLĐ Châu Thành | Hưu 10/2005 | |
18. | Nguyễn Minh Phụng | – nt – | LĐLĐ Châu Thành | Thay đ/c Bé Tư 02/2006 |
19. | Võ Tấn Phục | – nt – | LĐLĐ Chợ Gạo | |
Huỳnh Văn Rành | – nt – | LĐLĐ Gò Công Tây | Nghi hưu
chờ từ 2005 |
|
20. | Nguyễn Thị Mỹ Hoa | – nt – | LĐLĐ Gò Công Tây | Thay đ/c Rành 02/2006 |
Phạm Thị Lan | – nt – | LĐLĐ TX Gò Công | Hưu 01/2007 | |
21. | Nguyễn Văn Hải | – nt – | LĐLĐ TX Gò Công | Thay đ/c Lan |
22. | Bùi Vĩnh Thanh | – nt – | LĐLĐ GC Đông | |
Nguyễn Tấn Tranh | – nt – | CĐ ngành Y tế | Chuyển GĐ Sở YT 10/2006 | |
23. | Trần Văn Dân | – nt – | CĐ ngành Y tế | Thay đ/c Tranh 10/2006 |
24. | Nguyễn Thị Phụng | – nt – | Công đoàn VC | |
Trần Văn Kết | – nt – | CĐ ngành Xây dựng | Chuyển UBND TP Mỹ Tho 01/2007 | |
25. | Nguyễn Thị Kim Hương | – nt – | CĐ ngành N nghiệp | |
26. | Cao Phước Lộc | – nt – | CĐ ngành GTVT | |
27. | Nguyễn Xuân Dũng | – nt – | CĐ ngành TMDL | |
Trần Hoà Huy | – nt – | CĐ ngành Thủy sản | Chuyển công tác thôi chtrách 2006 | |
28. | Nguyễn Tuấn Ngọc | – nt – | CĐ ngành Thủy sản | Thay đ/c Huy |
29. | Lê Thị Mỹ Việt | – nt – | LĐLĐ Cai Lậy | |
30. | Đặng Kiêm Hằng | – nt – | XN Dược TG | |
31. | Huỳnh Ngọc Vân | – nt – | CĐCS Cty CP Rquả | |
32. | Nguyễn Văn Minh | – nt – | CĐCS CTy CP Cơ Khí | |
33. | Phan Thanh Bình | – nt – | CĐCS May Tiền Tiến | |
34. | Nguyễn Minh Vỹ | – nt – | Sở LĐTB Xã hội | |
35. | Nguyễn Văn Vĩnh | – nt – | Sở Tư pháp | |
ỦY BAN KIỂM TRA | ||||
1 | Trần Văn Dũng | Chủ nhiệm | LĐLĐ tỉnh TG | |
Nguyễn Thị Tuấn | P.Chủ nhiệm | LĐLĐ tỉnh TG | Nghi hưu | |
2 | Nguyễn Như Kỹ | Ủy viên | Sở Tài chính | |
Ngô Văn Lợi | Ủy viên | Sở Giáo dục | Không tham gia UBKT | |
3 | Nguyễn Văn Nở | Ủy viên | Thanh tra tỉnh | |
4 | Võ Văn Thanh | Ủy viên | Sở Tư pháp | |
5 | Đoàn Văn Vĩ | Ủy viên | Sở Lao động |
- HÌNH ẢNH CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO
- THÀNH TÍCH CAO ĐƯỢC NHÀ NƯỚC TRAO TẶNG
Tập thể Liên đoàn Lao động tỉnh:
– Huân chương Lao động hạng III (năm 1993)
– Huân chương Lao động hạng II (năm 1998)
– Huân chương Lao động hạng I (năm 2003)
– Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc (năm 2006)
– Huân chương Độc lập hạng III (năm 2008)
– Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc (năm 2009)
– Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc (năm 2010)
– Huân chương Độc lập hạng II (năm 2013)
Các cấp Công đoàn trong tỉnh
+ Tập thể được Chủ tịch Nước tặng Huân chương Lao động hạng III
- LĐLĐ thành phố Mỹ Tho (năm 2008)
- LĐLĐ huyện Gò Công Đông (năm 2008)
- Công đoàn Giáo dục tỉnh (năm 2008)
- LĐLĐ huyện Cai Lậy (năm 2009)
- Công đoàn Viên chức (năm 2009)
- Công đoàn ngành Y tế (năm 2011)
- LĐLĐ Thị xã Gò Công (năm 2012)
- CĐ Giáo dục huyện Cai Lậy (năm 2012)
+ Cá nhân được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III
- Trương Thị Bé Sáu – Chủ tịch LĐLĐ tỉnh (năm 2008)
- Trương Văn Hiền – Phó Chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh (năm 2008)
- Nguyễn Thị Phụng – Chủ tịch CĐ Viên chức tỉnh (năm 2009)
- Phan Thành Hiệp – Trưởng Ban Tuyên giáo LĐLĐ tỉnh (năm 2010)
- Lê Minh Hùng – Phó Chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh (năm 2011)
- Nguyễn Thế Khải – Trưởng Ban Tổ chức LĐLĐ tỉnh (năm 2012)
- Trần Văn Dũng – Chủ nhiệm UBKT CĐ tỉnh (năm 2012)
- Trần Văn Dân – Chủ tịch CĐ Ngành Y tế (năm 2012)
- Bùi Vĩnh Thanh – Chủ tịch LĐLĐ huyện Gò Công Đông (năm 2012)
- Trần Ngọc Thanh – Chủ tịch CĐGD huyện Cai Lậy (năm 2012)
+ Tập thể được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
- Liên đoàn Lao động huyện Gò Công Đông (năm 2002)
- Công đoàn Ngành Giáo dục tỉnh Tiền Giang (năm 2004)
- Công đoàn Viên chức tỉnh Tiền Giang (2004)
- CĐCS Công ty Dược Vật tư Y tế Tiền Giang (năm 2004)
- LĐLĐ Thị xã Gò Công (năm 2004)
- Công đoàn Ngành Y tế Tiền Giang (năm 2005)
- LĐLĐ Thành phố Mỹ Tho (năm 2005)
- CĐCS Cơ quan LĐLĐ tỉnh (năm 2006)
- LĐLĐ huyện Cai Lậy (năm 2006)
- Công đoàn ngành Nông nghiệp & PTNT: (năm 2008)
- LĐLĐ huyện Chợ Gạo (năm 2008)
- Công đoàn Giáo dục huyện Cai Lậy (năm 2009)
- LĐLĐ huyện Cái Bè (năm 2009)
- LĐLĐ huyện Tân Phước (năm 2009)
- LĐLĐ huyện Châu Thành (năm 2011)
- Công đoàn Giáo dục thành phố Mỹ Tho (năm 2011)
- Ban Chính sách Pháp luật LĐLĐ tỉnh (năm 2011)
- Công đoàn ngành Xây dựng (năm 2011)
- Công đoàn ngành Công thương (năm 2012)
+ Cá nhân được tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
- Trương Thị Bé Sáu – Phó Chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh (năm 2004)
- Trương Văn Hiền – Phó Chủ tịch LĐLĐ tỉnh (năm 2004)
- Đào Ngọc Linh – Chánh Văn phòng LĐLĐ tỉnh (năm 2005)
- Phạm Văn Khiết – Chủ tịch LĐLĐ tỉnh (năm 2005)
- Trần Văn Dân – Chủ tịch CĐ Ngành Y tế (năm 2006)
- Nguyễn Thị Phụng – Chủ tịch CĐ Viên chức Tỉnh (năm 2006)
- Phan Thành Hiệp – Trưởng Ban Tuyên giáo LĐLĐ tỉnh (năm 2006)
- Nguyễn Thế Khải – Trưởng Ban Tổ chức LĐLĐ tỉnh (năm 2007)
- Nguyễn Thị Cúc – Phó Chủ tịch LĐLĐ TP. Mỹ Tho (năm 2007)
- Lao Thị Hà – Phó Chủ tịch CĐ ngành Giáo dục Tỉnh (năm 2008)
- Lê Minh Hùng – Phó Chủ tịch LĐLĐ tỉnh (năm 2008)
- Bùi Vĩnh Thanh – Chủ tịch LĐLĐ huyện Gò Công Đông (năm 2008)
- Trần Ngọc Thanh – Chủ tịch CĐ Giáo dục huyện Cai Lậy (năm 2008)
- Trần Văn Dũng – Chủ nhiệm UBKT Công đoàn tỉnh (năm 2009)
- Nguyễn Thị Bé Bảy – Phó Chủ tịch CĐGD huyện Cai Lậy (năm 2010)
- Võ Tấn Phục – Chủ tịch LĐLĐ huyện Chợ Gạo (năm 2011)
- Lê Thanh Tiền – Phó Chủ tịch LĐLĐ tỉnh (năm 2011)
- Nguyễn Thị Ngọc Dung – Chủ tịch CĐGD huyện Cái Bè (năm 2011)
- Huỳnh Thị Phượng – Chủ tịch CĐGD huyện Gò Công Đông (năm 2011)
- Huỳnh Thị Thiền – Chủ tịch CĐGD huyện Tân Phước (năm 2011)
- Bùi Văn Bảo – Chủ tịch LĐLĐ TP. Mỹ Tho (năm 2012)
- Nguyễn Minh Phụng – Chủ tịch LĐLĐ huyện Châu Thành (năm 2012)
- Đào Tôn Nữ Xuân Viên – UVTV CĐ Ngành Y tế (năm 2012)
- Võ Tấn Phú – Chủ tịch LĐLĐ huyện Cai Lậy (năm 2012)
- Ngô Thị Thùy Trang – Phó Ban Tài chính LĐLĐ Tỉnh (năm 2012)
(và 12 bằng khen Thủ tướng cho cán bộ CĐ và công nhân trực tiếp sản xuất)
+ Cá nhân được phong tặng danh hiệu Chiến sĩ Thi đua toàn quốc
- Trương Thị Bé Sáu – Chủ tịch LĐLĐ tỉnh (năm 2007)
- Lao Thị Hà – Phó Chủ tịch CĐ Ngành Giáo dục tỉnh (năm 2010)
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
– Ban Dân vận Tỉnh ủy, Bảng số liệu tổ chức của các đoàn thể tỉnh Tiền Giang năm 1994, Bản đánh máy 3 trang A 4.
– BCH Công đoàn ngành xây dựng tỉnh Tiền Giang, Các văn kiện trình Đại hội công đoàn ngành xây dựng Tiền Giang nhiệm kỳ 2003 – 2008, Bản đánh máy 48 trang khổ A 4.
– Công đoàn huyện Cai Lậy, Tóm lược phong trào công nhân, lao động và hoạt động Công đoàn huyện Cai Lậy, Bản đánh máy 82 trang khổ A 4.
– Công đoàn ngành xây dựng tỉnh Tiền Giang, Báo cáo sơ kết phong trào công nhân lao động công đoàn giữa nhiệm kỳ (1996 – 1997) và phương hướng nhiệm vụ chủ yếu những năm tiếp theo (1998 – 2000), Bản đánh máy 16 trang khổ A 4.
– Công đoàn ngành Y tế, Lược sử Công đoàn ngành Y tế Tiền Giang kỷ niệm 30 năm thành lập (1976 – 2006), Bản đánh máy 120 trang khổ A 4.
– Công đoàn Tiền Giang, Từ Đại hội đến Đại hội, Bản đánh máy 2 trang A 4.
– Công đoàn Viên chức Việt Nam, Công đoàn Viên chức Việt Nam 10 năm xây dựng và phát triển (1994 – 2004), Nxb Lao Động, Hà Nội, 2004.
– Công đoàn Viên chức Việt Nam, Văn kiện Đại hội III, Nxb Lao động, Hà Nội, 2008.
– Liên đoàn Lao động thành phố Cần Thơ, Lịch sử phong trào công nhân viên chức lao động và hoạt động Công đoàn Cần Thơ (1975 – 2003), Cần Thơ, 2007.
– Liên đoàn Lao động Tiền Giang, Báo cáo hoạt động Công đoàn năm 1999 và nhiệm vụ công tác Công đoàn năm 2000, Bản đánh máy 13 trang khổ A 4.
– Liên đoàn Lao động Tiền Giang, Báo cáo hoạt động Công đoàn năm 1998 và nhiệm vụ công tác Công đoàn năm 1999, Bản đánh máy 19 trang khổ A 4.
– Liên đoàn Lao động Tiền Giang, Báo cáo hoạt động Công đoàn năm 2000, Bản đánh máy 16 trang A 4.
– Liên đoàn Lao động Tiền Giang, Báo cáo Tổng kết phong trào công nhân viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn năm 2006, phương hướng nhiệm vụ năm 2007, Bản đánh máy 9 trang đánh máy khổ A 4.
– Liên đoàn Lao động Tiền Giang, Báo cáo Tổng kết phong trào công nhân viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn năm 2002, phương hướng nhiệm vụ công tác Công đoàn năm 2003, Bản đánh máy 11 trang đánh máy khổ A 4.
– Liên đoàn Lao động Tiền Giang, Báo cáo Tổng kết phong trào công nhân viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn năm 2003, phương hướng nhiệm vụ năm 2004, Bản đánh máy 7 trang đánh máy khổ A 4.
– Liên đoàn Lao động Tiền Giang, Báo cáo Tổng kết phong trào công nhân viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn năm 2005, phương hướng nhiệm vụ công tác Công đoàn năm 2006, Bản đánh máy 12 trang đánh máy khổ A 4.
– Liên đoàn Lao động tỉnh Thừa Thiên Huế, Lịch sử phong trào công nhân, viên chức, lao động và Công đoàn tỉnh Thừa Thiên Huế 1975 – 2000, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2003.
– Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang, Các Văn kiện Đại hội Công đoàn tỉnh Tiền Giang lần I, II, III, IV, V, VI, VII, VIII. Bản đánh máy (114 trang đánh máy khổ A 4)
– Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang, Chân dung người lao động và cán bộ Công đoàn ngày nay, Tiền Giang 2008.
– Liên đoàn Lao động tỉnh Trà Vinh, Lịch sử phong trào công nhân lao động và hoạt động Công đoàn tỉnh Trà Vinh (1929 – 2005), Nxb Chính trị Quốc Gia, Tp Hồ Chí Minh, 2008.
– Tỉnh ủy – Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang, Địa chí Tiền Giang tập I, Trần Hoàng Diệu, Nguyễn Anh Tuấn chủ biên, Tiển Giang, 2005, phần Địa lý.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo đặc điểm tình hình kinh tế xã hội năm 1987, Bản đánh máy 25 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo đặc điểm tình hình năm 1979 và nhiệm vụ năm 1980 ,Bản đánh máy 24 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo đặc điểm tình hình năm 1988, bản đánh máy 24 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo sơ kết 1 năm thực hiện Chỉ thị số 04 – CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, người lao động và tổ chức Công đoàn trong tình hình mới, Tiền Giang 2007.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 1998, Bản đánh máy 15 trang khổ A 4
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008, Bản đánh máy 29 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009, Bản đánh máy 26 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006, Bản đánh máy 30 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2003 và phương hướng nhiệm vụ năm 2004, Bản đánh máy 33 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007, Bản đánh máy 33 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005, Bản đánh máy 29 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ năm 2003, Bản đánh máy 27 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 1996 và phương hướng nhiệm vụ năm 1997, Bản đánh máy 25 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tổng kết 5 năm lãnh đạo thực hiện việc thành lập tổ chức Công đoàn cơ sở xã, phường, thị trấn, Tiền Giang, 2009.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Báo cáo tổng kết năm 1993 và phương hướng nhiệm vụ năm 1994, Bản đánh máy 29 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Kỷ yếu Đảng bộ tỉnh Tiền Giang 1930 – 2010, Tiền Giang, 2010.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Số liệu chủ yếu 6 tháng đầu năm 1998, Bản đánh máy 8 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Số liệu chủ yếu năm 1994, Bản đánh máy 13 trang khổ A 4.
– Tỉnh ủy Tiền Giang, Số liệu chủ yếu năm 1998, Bản đánh máy 6 trang khổ A 4.
– Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn Việt Nam từ Đại hội I đến Đại hội X, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2008.
– UBND tỉnh Tiền Giang, Số liệu chủ yếu năm 1993, Bản đánh máy 9 trang A 4.
– Tài liệu tham khảo
[1] Về hoạt động của công nhân lao động Mỹ Tho và Gò Công từ 1930 đến 1975, xin tìm đọc thêm: “Công nhân lao động Mỹ Tho – Gò Công những chặng đường đấu tranh và thắng lợi” do Liên đoàn Lao động Tiền Giang xuất bản năm 1994.
[2] Tháng 6 năm 1967, thị xã Mỹ Tho được Khu ủy Khu 8 đề nghị nâng lên thành Thành phố Mỹ Tho và được Trung ương Cục Miền Nam chuẩn y, thành đơn vị ngang cấp tỉnh.
[3] Lịch sử Công an Nhân dân tỉnh Tiền Giang (1975 -2000) sơ thảo, 7/2005, trang 3
[4] Danh sách Ban Chấp hành Khóa I xin xem ở phần Phụ lục.
[5] Theo Công đoàn Việt Nam từ Đại hội I đến Đại hội X, NXB Lao động, 2008, trang 154.
[6] Công đoàn Việt Nam từ Đại hội I đến Đại hội X, NXB Lao động, trang 234
[7] Danh sách Ủy viên Ban Thường vụ và Ủy viên Ban Chấp hành Khoá II xin xem ở phần Phụ lục
[8] Danh sách Ủy viên Thường vụ và Ủy viên Ban Chấp hành Khóa III xin xem ở phần Phụ lục.
[9] Văn kiện Đại hội III, Tỉnh Đảng bộ Tiền Giang
[10] Văn kiện Đại hội IV.
[11] Danh sách Chủ tịch, các Phó chủ tịch, Ủy viên Thường vụ, Ủy viên BCH Khóa IV xin xem ở phần Phụ lục.
[12] Danh sách Chủ tịch, Phó chủ tịch, Ủy viên Thường vụ, Ủy viên BCH Khóa V xin xem phần Chú thích.
[13] Về những tấm gương tiêu biểu xin xem thêm “Chân dung người lao động và cán bộ Công đoàn ngày nay” do Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang xuất bản năm 2008.
[14] Trích Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam
[15] Danh sách UV Thường vụ, UV BCH Khóa VI xin xem ở phần Phụ lục
[16] Danh sách UV Thường vụ, UV BCH Khóa VII xin xem ở phần Phụ lục.
[17] Về những tấm gương điển hình, xin xem thêm “Chân dung người lao động và Cán bộ Công đoàn ngày nay” do Liên đoàn Lao động tỉnh Tiền Giang xuất bản năm 2008.